Giai đoạn thứ hai được bắt đầu từ sau chiến thắng Việt Bắc
đến chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950. Đây là giai đoạn đẩy
mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, phát triển chiến tranh du
kích, từng bước tiến lên vận động chiến, làm thất bại một bước âm
mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh và âm mưu "dùng người Việt đánh
người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp. Đặc
biệt, trong giai đoạn này, Cách mạng Trung Quốc thành công (năm
1949) đã có tác dụng cổ vũ lớn lao đối với cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam. Và kể từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân
Việt Nam nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ thiết thực từ các nước xã hội
chủ nghĩa, đặc biệt là từ Liên Xô và Trung Quốc. Cũng từ năm 1950,
đế quốc Mỹ ngày càng rót nhiều viện trợ về trang bị, vũ kế vào chiến
trường Đông Dương cho Pháp, can thiệp ngày càng sâu hơn vào cuộc
chiến ở đây. Những chuyển biến này đã tác động không nhỏ tới cuộc
chiến đấu của nhân dân Việt Nam.
Giai đoạn thứ ba là từ chiến dịch Biên giới đến khi cuộc kháng
chiến thắng lợi (1954). Đây là giai đoạn phát triển tiến công và phản
công, giữ vững và phát huy quyền chủ động trên chiến trường chính
Bắc Bộ, với sự phối hợp chung của các chiến trường trong toàn Việt
Nam cùng chiến trường Lào và Campuchia, tiến lên mở cuộc tiến công
chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 với trận quyết chiến chiến lược
Điện Biên Phủ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, quân và dân Việt Nam
đã làm thất bại hoàn toàn nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn thương
lượng tại Hội nghị Giơnevơ và ký Hiệp định chấm dứt cuộc chiến
tranh ở Đông Dương ngày 21-7-1954. Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, Đảng đã đánh giá đúng những tình thế cách mạng
và lực lượng so sánh đôi bên trong các bước ngoặt của chiến tranh
theo quan điểm của chiến tranh cách mạng. Đảng, Chính phủ Việt
Nam mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và 15
tháng sau đã phát động toàn quốc kháng chiến đúng thời cơ, ở thời