xã hội chủ nghĩa và cuộc sống hòa bình của nhân dân. Quân đội đó
luôn sát cánh cùng nhân dân và dựa vào nhân dân để chiến đấu, giữ
gìn mối quan hệ máu thịt với nhân dân, kính trọng dân, đoàn kết và
giúp đỡ nhân dân trong chiến đấu và trong lao động sản xuất, đoàn kết
và phối hợp chiến đấu cùng với dân quân du kích, tự vệ ở địa phương,
giữ nghiêm kỷ luật quần chúng trong mọi điều kiện...
Trải qua những năm tháng trường kỳ kháng chiến, sự lớn
mạnh, trưởng thành của quân đội gắn liền với sự đùm bọc, che chở,
nuôi dưỡng của nhân dân, cũng như sự giáo dục, rèn luyện trong chiến
đấu và trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. Sức mạnh chiến đấu của Quân
đội nhân dân Việt Nam bắt nguồn từ sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân, sức mạnh của Cách mạng, của Đảng và Nhà nước Việt Nam
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cũng nhờ có được tính nhân dân
vững chắc, gắn bó máu thịt với nhân dân, xây dựng trên “nền nhân
dân” mà Quân đội nhân dân Việt Nam đã luôn xứng đáng với danh
hiệu cao quý mà nhân dân ban tặng “Bộ đội Cụ Hồ”.
Tính nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam, theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, còn được thể hiện ở phẩm chất “hiếu với dân” của cán
bộ, chiến sĩ. Hiếu với dân bao hàm trong đó sự biết ơn sâu sắc, sự
phục vụ tận tụy để đền đáp công lao của nhân dân đã đùm bọc giúp
đỡ, nuôi dưỡng quân đội, mà sự báo đền lớn nhất là hy sinh chiến đấu
vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tại Hội nghị
kiểm thảo chiến dịch đường số 18 (5-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn: “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là “cứu
tinh” của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân. Tất cả
quân nhân phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu... Muốn vậy, bộ đội
phải giúp đỡ dân, thương yêu dân... Dân như nước, quân như cá”
25
.
Mặt khác, Quân đội nhân dân Việt Nam với bản chất của giai cấp công
nhân, có vai trò to lớn, vinh dự vẻ vang, phát huy tính nhân dân trong
công tác xây dựng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân do Đảng lãnh đạo.
Đây không chỉ là vinh dự, trách nhiệm chính trị, mà còn là tình cảm