Tư tưởng này thể hiện rất rõ trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
và giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Đương đầu với kẻ thù thường lớn mạnh hơn mình, nhiều
trường hợp lớn gấp nhiều lần, lại rất tàn bạo, xảo quyệt trong chủ
trương tổ chức, chỉ đạo và thực hành tác chiến, ông cha ta đều chú
trọng tránh chỗ mạnh của địch, tìm chỗ yếu của chúng, lấy cái mạnh
của mình mà đánh. Cách đánh đó khiến địch không thể phát huy được
sở trường, ưu thế của chúng, những điểm yếu, chỗ yếu chí mạng của
chúng lại liên tục bị khoét sâu, ngày càng trầm trọng. Trái lại, ta có thể
phát huy mọi lợi thế, sức mạnh của mình một cách thích hợp, có thể
tiến công tiêu hao, tiêu diệt địch mọi nơi, mọi lúc. Từ xa xưa, trong
đánh địch, trong kháng chiến trường kỳ, quân và dân Việt Nam luôn
thể hiện tinh thần tiến công địch một cách kiên quyết, không quản ngại
hy sinh, gian khổ, luôn xây dựng và thể hiện một quyết tâm rất cao, có
ý chí kiên trì, bền bỉ đi đến thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, tuỳ điều
kiện, hoàn cảnh, tuỳ tình huống cụ thể về địch, về ta, về địa hình, thời
tiết, thậm chí còn do bối cảnh quốc tế, đi đôi với tính kiên quyết, ta đã
thể hiện tính linh hoạt.
Trần Quốc Tuấn nói: "Quân kỳ suy biến, như vị kỳ nhiên, tùy thời
chế nghi", nghĩa là phải xem xét biến hóa của địch mà đánh, tùy cơ ứng
biến. Nguyễn Trãi cũng viết: "Việc binh cốt phải mau chóng như thần, máy
then đóng mở, như bánh xe chuyển, như đám mây bay, trong khoảng chốc
lát, chợt nóng, chợt lạnh, thay đổi khôn lường"
42
.
Tiềm lực kinh tế - quốc phòng của ta nhỏ yếu, dân số và quân số ít,
nên chủ trương "lấy ít địch nhiều", "nhỏ thắng lớn". Cũng vì thực trạng và
thực lực như thế, quân và dân Việt Nam phải thấm nhuần tư tưởng tiến
công. Các cuộc chiến chống ngoại xâm lặp đi lặp lại trong tình thế và
phương thức đó mà hình thành nên một trường phái quân sự Việt Nam: lấy
nhỏ đánh lớn. Lấy nhỏ đánh (và phải thắng) lớn nên phải đánh bằng mưu
kế, thắng bằng thế - thời. Đó là kết tinh của ý chí - trí tuệ - bản lĩnh Việt