Carey ghi nhận, bệnh này “rất tàn khốc đối với người nghèo”. Khi trận dịch bắt đầu, nhiều thầy thuốc tin
rằng người da đen ít có khả năng mắc bệnh hơn người da trắng, nhưng danh sách người chết cho thấy
điều này không đúng. Tuy nhiên, Carey ghi nhận là trong giai đoạn đầu của vụ dịch, khi không có điều
dưỡng da trắng chăm sóc cho người ốm, bổn đạo nhà thờ người da đen đã làm thay điều dưỡng và giúp
chôn cất người chết. Carey viết điều dưỡng rất quan trọng bởi vì nhiều người chết là do thiếu chăm sóc
chứ không phải do chính độc lực của virus.
Khó mà xác định được tỷ số tử vong theo ca bệnh (case fatalíty rate) đối với sốt vàng bởi vì những ca
nhẹ có thể bị sót hoặc chẩn đoán sai. Trong vụ dịch 1878 tại New Orleans, tỷ lệ tử vong trong bệnh viện
là trên 50% đối với da trắng và 21% đối với da đen. Tuy nhiên, các thầy thuốc ước tính tỷ lệ tử vong của
người da trắng tại các phòng mạch tư thấp hơn 10%. Có lẽ những sai biệt này phản ánh tình trạng sức
khỏe khác nhau của người giàu với người nghèo. Chỉ có những người da trắng quá mức nghèo khó mới
được đưa vào bệnh viện.
Benjamin Henry Latrobe (1764-1820), là một kỹ sư tham gia hoạch định Washington, D. C, tin rằng
hệ thống nước sạch sẽ hạn chế mối đe dọa của bệnh gây dịch. Năm 1798, Latrobe viếng Philadelphia và
kết luận rằng các giếng nước bị ô nhiễm bởi “chất độc hại” đi từ các nhà xí thành phố mới là nguyên
nhân gây ra bệnh dịch. Năm 1801, sau khi theo các kế hoạch của Latrobe, Philadelphia có một hệ thống
nước an toàn cho cả thành phố, gồm có những máy bơm trên vỉa hè cung cấp nước miễn phí cho mọi
người, và những đường ống riêng nối thẳng đến nhà những người giàu có. Một vài thành phố lớn, nhất là
New York và Boston, cũng đầu tư vào hệ thống nước thành phố vào đầu bán thế kỷ 19, nhưng nước, các
vấn đề xử lý nước thải và rác vẫn tiếp tục gây phiền hà cho nhiều thành phố mãi đến thế kỷ 20. Mặc dù
uống phải nước nhiễm bẩn không gây ra sốt vàng, nhưng cải tiến chất lượng nước cung cấp đã đóng một
vai trò làm giảm nguy hiểm những bệnh gây dịch, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Hơn thế nữa, việc thanh toán
các đầm lầy, hào rãnh, giếng nước và bể chứa nước khi các thành phố lớn mạnh và canh tân đã làm giảm
nhiều khu vực thuận lợi cho muỗi sinh trưởng.
NGHỀ Y
Trong thời kỳ thuộc địa, có ít trở ngại pháp lý hoặc xã hội cản trở việc hành nghề y. Người được đào tạo
cũng như không được đào tạo đều có thể tự cho mình là thầy thuốc. Dần dà, các thầy thuốc xây dựng một
bản sắc nghề nghiệp được luật pháp bảo vệ bằng cách gắn kết với nhau trong các hội nghề nghiệp vận
động cho ra đời những luật cấp phép hành nghề y để loại trừ những người hành nghề không chính quy.
Nhưng sự đòi hỏi trình độ chuyên nghiệp và những ràng buộc pháp lý về hành nghề y lại không phù hợp
với xu thế văn hóa của một đất nước đang phát triển. Khoảng năm 1845, nhiều tiểu bang đã bãi bỏ những
luật cấp phép hành nghề y. Ý thức rằng những luật lệ về cấp phép ngày càng trở nên không được quần
chúng cảm tình và các hội đoàn cấp tiểu bang không thể nào đạt được mục tiêu đặt ra, các thầy thuốc
chính quy đứng ra thành lập Hiệp hội Y khoa Mỹ vào năm 1847 nhằm đưa ra một cương lĩnh toàn quốc
nhằm đẩy mạnh các lợi ích của nghề nghiệp. Đến cuối thế kỷ 19, mặc dù gặp sự cạnh tranh của các tổ
chức y khoa không chính quy, các thầy thuốc về cơ bản đã đạt được một uy thế độc quyền ở từng tiểu
bang quy định việc cấp phép hành nghề.
Để cho nghề nghiệp của mình được thừa nhận, các thầy thuốc chính thống cũng cố gắng tìm cách kiểm
soát việc giáo dục y khoa. Phần lớn những người có nguyện vọng muốn trở thành thầy thuốc lại không