dựng lại một cách đơn giản hơn quan niệm của Galen về vấn đề này nằm ở chỗ là sự hô hấp và chuyển
động của máu lại gắn kết chặt chẽ trong hệ thống của Galen cho nên khó mà gỡ ra được những rối rắm
của từng vấn đề, hoặc xem các vấn đề này không nằm trong các học thuyết của ông liên quan đến sự
hình thành và phân bố của chất khí và dịch khí (spirits). Hô hấp rõ ràng là cần thiết cho sự sống bởi vì nó
được coi như có liên quan đến quá trình làm nguội cái nóng quá mức của quả tim. Vì thế, sinh hồn (vital
spirit) nhất thiết phải gắn kết với các cơ quan hô hấp, mà trong hệ thống của Galen gồm có quả tim, các
động mạch cũng như phổi. Nếu quả thật có chất dịch khí tự nhiên (natural spirit), thì Galen nghĩ rằng
chất này sẽ nằm trong gan và các tĩnh mạch. Khi thử đơn giản hóa các lập luận phong phú của Galen, các
môn đồ của ông thường chuyển các giả thuyết “nếu có như thế” mang tính thăm dò thành những điều
chắc chắn “có như thế” mang tính giáo điều.
Trong ý tưởng chính về sinh lý học của Galen, máu được tổng hợp liên tục từ các thực phẩm được ăn
vào. Phần hữu ích của máu được vận chuyển dưới dạng dưỡng trấp từ ruột qua tĩnh mạch cửa rồi vào
gan, tại đây, nhờ tính chất bẩm sinh của gan, dưỡng trấp được chuyển thành máu tĩnh mạch màu đen. Sau
đó, các mô rút các chất nuôi dưỡng cần thiết từ máu nhờ tính năng chọn lọc riêng biệt của từng loại mô.
Phần thực phẩm vô dụng được lách chuyển đổi thành mật đen. Ngay cả Galen cũng không hiểu chính
xác bằng phương cách nào mà những sự chuyển đổi này - tất cả các hiện tượng mà hiện nay ta gọi chung
là sự chuyển hóa - thành hình được.
Giống như Erasistratus, Galen cho rằng phải có những kết nối giữa các tĩnh mạch (bắt nguồn từ gan) và
các động mạch (phát xuất từ tim) bởi vì khi chảy máu từ mạch máu nào cũng làm cạn máu của cả hệ
thống. Nhưng Galen đã khéo léo gạt bỏ ý kiến cho rằng, trong điều kiện bình thường, các động mạch chỉ
chứa khí mà thôi. Các lập luận và chứng cứ thí nghiệm của ông được trình bày trong một công trình ngắn
gọn nhan đề ‘Liệu trong tự nhiên động mạch có chứa máu?’. Nếu động mạch của một động vật còn sống
được bộc lộ và cột chặt ở hai điểm, đoạn mạch máu nằm giữa hai chỗ bị buộc sẽ chứa đầy máu. Hơn thế
nữa, khi mở tung lồng ngực của một động vật còn sống, người ta thấy máu trong thất trái quả tim. Theo
sơ đồ của Galen, mạch đập của động mạch sinh ra từ tim. Trong kỳ tâm trương, sự giãn nở của các động
mạch sẽ hút khí từ các lỗ nhỏ ngoài da và hút máu từ các tĩnh mạch. Vì thế, các động mạch có chức năng
cung cấp chất nóng bẩm sinh cho khắp cơ thể. Có thể chứng minh quan niệm này bằng cách dùng một
dây buộc chặt một chi cho đến khi nào không sờ được mạch đập. Phần chi phía dưới dây buộc sẽ trở nên
lạnh và nhợt nhạt, bởi vì các động mạch không còn cung cấp chất nóng bẩm sinh nữa.
Mặc dù Galen đã mô tả khá rõ ràng quả tim, các buồng tim và các van, nhưng các quan niệm tiên định đã
tạo nên những điểm mù mờ, giải thích lệch lạc và thậm chí làm sai lệch các nhận xét về giải phẫu học.
Để cho hệ thống Galen hoạt động thì máu phải đi thông từ tim phải sang tim trái. Vì thế, ông ta cho rằng
máu trong tim phải có thể đi theo nhiều đường. Một phần máu có chứa các chất không tinh khiết, hoặc
“các chất hơi có muội đen”, để thải ra ngoài qua các tĩnh mạch giống như động mạch (động mạch phổi).
Máu cũng có thể đi từ tim phải sang tim trái nhờ những lỗ nhỏ ở vách tim. Không thể nhìn thấy được
chính các lỗ nhỏ này, nhưng Galen giả định rằng những chỗ lõm thấy ở vách tim là miệng của các lỗ
hổng. Ý tưởng cho rằng máu có khả năng phồng hoặc xẹp như thủy triều từ lâu đã nằm trong môn sinh lý
học của Galen mặc dù dường như đây là một sự giải thích sai lệch của những phát biểu nói chung thường
mơ hồ của Galen về chuyển động của máu trong các mạch máu. Tuy nhiên, hệ thống dường như phụ
thuộc vào một chuyển động hai chiều còn chưa rõ của máu qua một số mạch máu nào đó.