nhiên chữa lành bệnh còn bác sĩ cho đó là công của mình và đòi thù lao. Holmes cũng tuyên bố một câu
để đời là nếu quăng tất cả các thứ thuốc xuống biển, chỉ trừ vài loại đặc biệt quan trọng, thì có lẽ tốt hơn
cho nhân loại và sẽ tệ hơn cho các loài cá. Mặc dù William Alcott, John Harvey Kellogg, Wooster Beach,
Andrew Taylor Still, và Samuel Hahnemann đều có những khả năng về y khoa đáng tin cậy, bất chấp
“những sự lừa bịp của họ”, Holmes tố cáo các nhà lãnh đạo các chi phái y học cạnh tranh là đã bôi xấu
chính hệ thống của họ khi giành giật những phát minh và tư tưởng của người khác, đã gian dối về quá
trình học vấn và đào tạo của mình và những tội ác nặng cũng như các hành động phi pháp khác.
Dù các trường y đồng căn liệu pháp biến mất, đồng căn liệu pháp vẫn còn phổ biến trong một số nhóm
dân cư và đến cuối thế kỷ 20 lại dấy lên sự quan tâm mới với sự ưa chuộng y học nhất thể (holistic) và y
học thay thế. Một số tiểu bang thông qua các đạo luật cho phép một số thầy thuốc y học thay thế - đồng
căn liệu pháp, châm cứu, chỉnh nắn cột sống, liệu pháp tự nhiên và nhiều thứ khác - có địa vị ngang hàng
với y học truyền thống trong chi trả bảo hiểm y tế. Một ngành y học đồng căn liệu pháp mới xuất hiện
trong đó nhấn mạnh đến các học thuyết tâm linh và nhất thể hơn là các nguyên tắc về các chất tương
đồng và liều lượng cực kỳ nhỏ của Hahnemann.
Học thuyết của Hahnemann cho rằng không bao giờ ta có thể biết được những hoạt động sâu thẳm
nhất của cơ thể và việc ông ta bác bỏ học thuyết gọi là giản lược hóa (reductionist) của một số bệnh
chuyên biệt đã phản ánh cái tín niệm cho rằng thầy thuốc đồng căn liệu pháp nhất thể là người chữa cho
toàn thân người bệnh, còn người thầy thuốc theo học thuyết giản lược hóa chỉ chữa bệnh mà thôi. Những
người chủ trương y học thuần túy phản đối việc sử dụng đồng căn liệu pháp như là một khẩu hiệu áp cho
nhiều loại bào chế đang bán tại các hiệu thuốc và cửa hàng thực phẩm bồi bổ sức khỏe. Tuy nhiên, giống
như những bậc tiền bối trong thế kỷ 19, những người chủ trương y học nhất thể và đồng căn liệu pháp
dường như đang vận động xóa bỏ biên giới giữa y học chính quy, y học truy nguyên và các ngành y học
thay thế.
THẦY NẮN XƯƠNG VÀ CHỈNH NẮN CỘT SỐNG
Andrew Taylor Still (1828-1917), người sáng lập ra ngành nắn xương, sinh tại Virginia, nhưng cha ông,
một mục sư Tin lành phái Giám lý (Methodist), được cử đến các cộng đồng xa xôi tại miền Trung Tây.
Giống như các nhà giảng đạo thời thuộc địa buổi đầu, Abram Still chăm lo phần hồn và phần xác cho các
tín đồ. Mặc dù Abram Still sau này cho rằng ông đã theo học trường y khoa tại Kansas City và phục vụ
Cuộc nội chiến với tư cách phẫu thuật viên, nhưng rõ ràng là ông trở thành bác sĩ khi giúp cha mình và
đọc các sách giáo khoa. Theo gương Vesalius, Still nâng cao kiến thức về giải phẫu học qua việc mổ xác
động vật và ăn cắp xác từ các nghĩa địa. Sau khi 3 trong 6 đứa con chết vì bệnh viêm màng não tủy sống,
Still trở nên bất mãn sâu sắc với nền y học chính thống. Tôn giáo, kinh nghiệm và các thầy thuốc không
chính quy đã giúp ông tin rằng các thứ thuốc quy ước đều chứa đầy nguy hiểm và làm cho con người trở
nên quen thuốc. Nhưng ông cũng chưa tìm ra được cái cơ sở lý luận đối nghịch giữa các ngành y học
thay thế thời đó với y học chính thống đủ sức thuyết phục cho đến khi ông bắt đầu mường tượng ra mối
liên kết giữa việc chữa bệnh bằng từ trường và những nghiên cứu về các cơ chế cơ học con người. Ông ta
kết luận, cơ thể con người là một cổ máy qua đó có một chất dịch từ tính vô hình chạy qua. Bệnh tật là
kết quả của những rối loạn làm cản trở chuyển động lành mạnh bình thường của chất dịch thiết yếu này.
Vì vậy, có thể chữa được bệnh khi phục hồi dòng chảy điều hòa của chất dịch từ tính này bên trong cổ
máy con người.