hợp làm lễ rửa tội, thì người hộ sinh có thể thực hiện phép rửa tội khẩn cấp. Nếu người mẹ chết trong khi
chuyển dạ, người hộ sinh có thể làm phép rửa tội ngay khi mổ để lấy con hoặc cho đứa trẻ còn nằm trong
bụng mẹ. Theo các phán quan dòng Dominican của Tòa án Tôn giáo là Heinrich Krämer và Jakob
Sprenger - hai ông này là tác giả của quyển sách đáng hổ thẹn “Búa phù thủy” (1486) - thì nữ hộ sinh là
một trong những dạng phù thủy nguy hiểm nhất. Nữ hộ sinh bị tố cáo làm làm cho phụ nữ sẩy thai và
đem dâng hài nhi mới sinh cho quỷ Satan. Những sản phẩm của sự sẩy thai và phá thai, thai chết lưu,
cuống rốn, nhau thai thảy đều đóng một vai trò khét tiếng trong kho thuốc của thuật phù thủy. Do vị trí
thấp hèn của nữ hộ sinh và tiền công mạt hạng của họ, cho nên họ dễ bị cám dỗ nhúng tay vào ma thuật,
buôn bán các thứ đồ cấm, hoặc nhận lấy tiền mua chuộc để thực hiện việc phá thai hoặc giết hài nhi lúc
mới sinh nhằm hạn chế số con trong gia đình. Tại nước Anh từ năm 1680 trở đi không có mấy vụ truy tố
phù thủy, nhưng mãi đến năm 1736 các đạo luật chống phù thủy mới bị bãi bỏ và cũng còn bằng chứng
cho thấy sự tin tưởng vào phù thủy còn tồn tại đến tận cuối thế kỷ 18. Do lời nguyền rủa bà Eve có từ
thời
Cựu ước, cho nên nữ hộ sinh bị cấm không được sử dụng thuốc hoặc các biện pháp ma thuật để làm
giảm bớt sự đau đớn khi sinh con. Tuy vậy, họ cũng lén lút sử dụng bùa chú, và thuốc được coi là có tác
dụng làm giảm đau và cho dễ đẻ. Nếu bị phát hiện, thì cả bệnh nhân lẫn cô mụ đều bị phạt nặng.
Khi phụ nữ càng ngày càng trở nên bị bất lợi không có cơ hội để theo học và thực hành y học, những
người làm nghề chữa bệnh đều bị xoá sạch khỏi lịch sử để không ai còn nhớ tới. Một ví dụ về tình huống
này là cách xử lý trường hợp Trotula tại Salerno trong lịch sử y học thời Trung cổ. Có khá nhiều bất
đồng khi đề cập có phải Trotula là giáo sư của Đại học Salerno vào thế kỷ 12 và là tác giả của các
chuyên luận lớn về sản phụ khoa, hoặc là một khuôn mặt huyền thoại, thậm chí lố bịch mà đôi khi được
gọi là Bà Trots. Nhiều bản dịch giản lược những bài giảng phụ khoa được gán cho Trotula đã được nhiều
thế hệ phụ nữ trân trọng cất giữ. Lấy ví dụ, bản Trotula tiếng Anh, có chứa nhiều bài thuốc phức tạp và
kỳ dị, các lời khuyên về thụ thai, thai kỳ, sinh đẻ, “tiếng gió trong tử cung” và nhiều vấn đề khác của phụ
nữ. Nếu có ai nghi ngờ hiệu quả của một đơn thuốc nào đó, tác giả khuyên nên thử trên gà con hoặc trên
gà trống.
Vào giữa thế kỷ thứ 15, các giới chức thế tục bắt đầu thay thế nhà thờ để điều hành việc hành nghề hộ
sinh. Khi sự chuyển dạ không bình thường, thì người hộ sinh phải gọi đến bác sĩ bởi vì theo luật, thì họ
không được sử dụng các dụng cụ phẫu thật. Mặc dù hình phạt cho sự bất tuân luật pháp có thể là tử hình,
nhưng các nữ hộ sinh rõ ràng là đã biến cải các dụng cụ thông thường thành những thứ phù hợp cho nhu
cầu của họ, theo những lời tố cáo thì họ đã sử dụng những thứ như móc, kim, muỗng và dao cho các ca
đẻ khó. Đa số các nữ hộ sinh đều mù chữ hoặc không có tiền mua sách vì quá nghèo, nhưng các bác sĩ
không đồng ý cho in ấn các tài liệu hộ sinh bằng tiếng địa phương. Quyển sách giáo khoa đầu tiên được
in dành cho nữ hộ sinh, Vườn hồng dành cho phụ nữ có thai và Nữ hộ sinh (1513) của Eucharius Rösslin
vẫn còn được sử dụng đến thập niên 1730. Bản tiếng Đức, chủ yếu là tập hợp các công trình tiếng Hy
Lạp và Latin, có kèm theo 20 minh họa. Một bản dịch tiếng Anh được xuất bản vào năm 1540 với nhan
đề Sự ra đời của nhân loại.
Một vài phụ nữ từ trong đám các thầy thuốc nữ vô danh đã lộ diện và lớn tiếng yêu cầu cải thiện việc đào
tạo và nâng cao vị trí của nữ hộ sinh.