Soranus tại Ephesus (98-138) được coi như là người có thẩm quyền về sản khoa và phụ khoa, nhưng
người đỡ đẻ mà ông mô tả trong bộ Phụ khoa là một hộ sinh - biết chữ, rành rọt các lý thuyết y học,
không hề mê tín, là người mạnh bạo, sáng suốt, được nể trọng, khéo léo, và là phụ nữ. Mặc dù các thầy
thuốc từ Hippocrates tới William Harvey đều chú ý đến sản khoa và phụ khoa, họ đều coi việc thực hành
hộ sinh đương nhiên là của phụ nữ. Ngay cả đến thế kỷ 17, đàn ông-hộ sinh là một hình ảnh gây nhiều
tranh cãi, đầy đe dọa, và có phần khôi hài nữa. Bác sĩ hoặc các phẫu thuật viên chỉ được mời tới trong
những trường hợp chuyển dạ khó khăn hoặc bị trở ngại. Khi người đàn ông-hộ sinh xuất hiện, thì phần
chắc là chết mẹ hoặc chết con. Khi các bác sĩ xử trí thành công nhiều ca đẻ khó, phụ nữ lại muốn mời họ
sớm trước khi các biến chứng xuất hiện. Vào thế kỷ 18, các phụ nữ giàu có càng ngày càng muốn chọn
người đỡ đẻ đàn ông, với hy vọng là được sinh con an toàn. Các bác sĩ sử dụng các dụng cụ sản khoa bắt
đầu thay thế các phẫu thuật viên là những người móc ra khỏi bụng mẹ các thai nhi chết và các hộ sinh
không được phép sử dụng các dụng cụ phẫu thuật.
Những nhận thức sai lầm từ xa xưa hệ thống sinh sản phụ nữ có liên quan chặt chẽ với các lý thuyết y
học về sự thụ thai, thời kỳ thai nghén, xác định giới tính và sự sinh đẻ. Trong việc xử lý sự sinh đẻ người
ta cho rằng thai nhi mới giữ vai trò quan trọng, là thành viên chính trong quá trình này chứ không phải là
người mẹ. Do người phụ nữ đang chuyển dạ được coi như là một sự cản trở, cho nên nhiệm vụ của bác sĩ
là sử dụng bất cứ dụng cụ nào cần thiết để giải phóng cho tù nhân bé nhỏ tội nghiệp đang cố gắng hết sức
để thoát ra khỏi dạ con. Tuy thế, khi các bác sĩ thách thức nữ hộ sinh về việc kiểm soát sinh đẻ, thì những
đòi hỏi của họ chủ yếu dựa vào ý kiến của chính họ cho rằng mình hiểu biết rõ hơn về giải phẫu học và
sinh lý học của bộ máy sinh sản nữ giới. Các nhà giải phẫu học thời Phục hưng đã thẳng tay bác bỏ nhiều
huyền thoại về hệ thống sinh sản con người, chẳng hạn như thời Hy Lạp cổ đại cho rằng tử cung là một
cơ quan có hai buồng, di động, luôn động đậy, lúc nào cũng muốn mang thai. Còn nữa, ngay cả đến đầu
thế kỷ 20, vẫn còn nhiều tranh luận về hình thái của tử cung, chức năng của cổ tử cung, và cơ chế chuyển
dạ.
Một ví dụ rõ hơn về cách mà các cây bút sáng tạo thay vì tái tạo lại quá khứ có thể tìm thấy trong hai
quyển sách được viết bởi James Hobson Aveling (1828-1892), thầy thuốc của Bệnh viện Chelsea dành
cho phụ nữ và Ủy viên Giám định các Hộ sinh của Hội Sản khoa London. Trong quyển tiểu sử viết về
những người xuất sắc, Dòng họ Chamberlen và những chiếc forceps đỡ đẻ (1882), Aveling đã trình bày
những đóng góp lớn của giới bác sĩ đối với ngành hộ sinh. Ngược lại, trong một tác phẩm khác của
Aveling: Các nữ hộ sinh người Anh: Lịch sử và tiền đồ của họ (1872), mục đích của ông này được nêu rõ
là cần phải coi chừng các nữ hộ sinh và phải nêu ra sự bất hạnh và thiệt hại phát sinh do sự ngu dốt của
họ. Aveling lấy bức tranh Elizabeth Cellier bị đóng gông bêu riếu để làm trang bìa cho quyển sách lịch
sử các nữ hộ sinh của mình, như thể tội của bà ta là sơ suất nghề nghiệp chứ không phải vì tội phỉ báng
thuộc động cơ chính trị. Trong khi tìm cách giải thích vị trí thấp kém của hộ sinh, Aveling ghi nhận rằng
chỉ nên mời một người hộ sinh đi đỡ đẻ cho bò hơn là can thiệp vào một ca đẻ khó. Tuy nhiên, trong các
gia đình cùng khổ thôn quê, bò được coi là có giá trị nhiều so với một cô vợ, cho nên không nên coi một
đòi hỏi như thế là một lời lăng mạ. Aveling cho rằng William Harvey đã cứu ngành hộ sinh của Anh ra
khỏi vị trí bị khinh miệt nhất trong ngành y. Nhưng sẽ là chính xác hơn khi nói rằng chính việc độc
quyền về forceps sản khoa và các dụng cụ phẫu thuật khác, cùng với những lời huênh hoang về kiến thức
sâu rộng chuyên ngành đã giúp cho nam giới chiếm ưu thế trong lĩnh vực này hơn là các nghiên cứu có
giá trị của Harvey về môn phôi thai học. Chưa rõ về nguồn gốc các forceps sản khoa, mặc dù dụng cụ
này có vẻ đơn giản về mặt hình dạng và chức năng. Tất cả những gì mà ta biết được đó là những “cánh