chiến cũng như lý do tại sao quá trình nâng cấp nền công nghiệp nước này
lại bị chững lại. Tôi sẽ kết thúc bằng việc chỉ ra một số thay đổi quan trọng
gần đây và sẽ trở lại đánh giá chúng trong Chương 13.
Hình mẪu lỢi thẾ cẠnh tranh cỦa nưỚc Anh
Bảng 9-1 trình bày 50 ngành công nghiệp dẫn đầu nước Anh trong năm
1985 về thị phần trong tổng xuất khẩu thế giới. Trong khi danh sách này
không đại diện đầy đủ cho vị trí quốc tế của nền kinh tế Anh vì thiếu những
thành công của quốc gia này trong ngành dịch vụ và các ngành công nghiệp
có tỷ lệ đầu tư nước ngoài cao, nó cũng có mức độ khái quát nhất định.
Nhiều ngành có vị thế lớn mạnh của Anh thuộc về các loại hàng hóa tiêu
dùng. Sức mạnh của nước Anh cũng đáng kể trong thương mại, thể hiện
qua sự có mặt của kim cương và platinum. Bên cạnh những thành công này
là rải rác ngành công nghiệp khác trải rộng toàn bộ nền kinh tế, bao gồm
hóa chất, động cơ và may mặc. Năm mươi ngành công nghiệp hàng đầu
chiếm 17,9% tổng xuất khẩu của Anh (sau khi loại bỏ hàng hóa được trao
đổi thương mại là 17%), rất thấp so với các nước mà chúng tôi đã nghiên
cứu. Điều này phản ánh bề rộng của nền kinh tế nước Anh, vị thế tương đối
chuyên môn hóa mà các công ty của nước này đang chiếm giữ và tầm quan
trọng của xuất khẩu dầu mỏ, khí đốt, nhiên liệu, xăng máy bay và xăng xe
gắn máy (chiếm 19,25% tổng xuất khẩu của nước Anh năm 1985), những
ngành mà thị phần của Anh đủ để đưa vào bảng xếp hạng 50 ngành công
nghiệp hàng đầu
.