và lương thấp hơn so với các quốc gia khác. Những bộ óc và các
nhà khoa học kiệt xuất vẫn tiếp tục tốt nghiệp từ những trường đại
học hàng đầu của Anh. Mặt khác, nhiều ngành công nghiệp lại phải
đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng. Lực lượng lao động của
nước Anh tụt hậu xa về giáo dục và kỹ năng so với nhiều nước tiên
tiến khác. Các nhà quản lý ở Anh cũng thường ít có bằng cao đẳng
và đại học hơn so với đồng nghiệp ở những nước phát triển khác.
Quốc gia này thiếu những nhà quản lý được đào tạo về kỹ thuật
tham gia vào các ngành công nghiệp chế tạo và những người có
nền tảng kỹ thuật khá hiếm trong đội ngũ lãnh đạo cấp cao.
Hầu hết các công ty của Anh đều tiến hành rất ít hoạt động đào
tạo trong công ty nhằm bù đắp cho hệ thống giáo dục yếu kém.
Đầu tư cho đào tạo trong công nghiệp ở Anh ước tính còn lâu mới
đạt 1% doanh thu (0,15% vào năm 1980) so với 2% ở Đức và 3% ở
Nhật
. Lực lượng lao động tốt nghiệp với trình độ giáo dục yếu
kém lại càng tụt hậu xa hơn. Kết quả thực tế là nước Anh bị bỏ xa
trong việc nâng cấp chất lượng trung bình của nguồn nhân lực.
Theo nhiều phương diện, đây là vấn đề cơ bản nhất đối với nền
kinh tế quốc gia, như đã xảy ra ở Mỹ.
Nước Anh đầu tư đáng kể vào nghiên cứu. Hầu hết các khoản
đầu tư này hướng vào khoa học cơ bản và đặc biệt là quân sự. Phần
lớn chi tiêu công cho hoạt động nghiên cứu và phát triển có liên
quan tới quân sự. Ví dụ năm 1987, 50% chi tiêu của chính phủ cho
hoạt động nghiên cứu và phát triển là vì mục đích quân sự so với
12% ở Đức, 5% ở Nhật và 34% ở Pháp
. Giống như ở Mỹ, điều
này đã hạn chế lợi ích của ngành công nghiệp và đôi khi làm các
công ty Anh xao lãng những cơ hội thương mại. Chi tiêu công cho
nghiên cứu và phát triển trong tất cả các lĩnh vực từ lâu đã phải