LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA - Trang 81

với những sản phẩm tương ứng, mặc dù các doanh
nghiệp của những nước này đã trở thành hàng đầu
thế giới. Ngay cả ở các quốc gia lớn, bất kỳ mối liên
kết đơn giản nào giữa giữa lợi thế kinh tế nhờ quy
mô và thành công quốc tế đều rất mong manh. Chẳng
hạn, ở Nhật Bản có hàng loạt đối thủ cạnh tranh
trong hầu hết các ngành công nghiệp nhạy cảm với
quy mô (ví dụ như, nước này có 9 hãng sản xuất xe
hơi), khiến thị trường nội địa bị phân mảnh. Nhưng
rất nhiều doanh nghiệp trong số này đã đạt được quy

mô đáng kể nhờ bán sản phẩm ra nước ngoài

[35]

.

Tính không xác định này áp dụng đối với tất cả các
kiểu không hoàn chỉnh của thị trường.

Những cố gắng lý giải thương mại khác vượt ra

khỏi lợi thế so sánh, theo cách này hay cách khác,
đều dựa vào công nghệ. Lý thuyết của Ricardo, trong
đó thương mại được dựa trên năng suất lao động
khác nhau giữa các quốc gia khi sản xuất những loại
hàng hóa cụ thể, cũng dựa vào những khác biệt về
công nghệ theo một nghĩa rộng. Một phiên bản giải
thích gần đây của luồng ý kiến này các lý thuyết về
thương mại được gọi là những lý thuyết “khoảng

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.