kia, không được phép sai một ly một lai, nhưng nếu tìm đúng cửa, thì chẳng
chuyện gì là không hanh thông.
Bốn phía khu hỏa táng đều có tường rào bao quanh, bên trong có hai tòa
nhà, một tòa ở phía trước, một tòa ở phía sau, tòa nhà phía trước có hai
tầng, tòa nhà phía sau có ba tầng, bảo vệ ngồi gác ở tầng một tòa nhà phía
trước. Tư Mã Khôi gọi cửa, vừa nhìn đã thấy một lão già người thấp lùn
một mẩu nhưng khá đô con, đầu lão nhẵn bóng, miệng rộng ngoác tận mang
tai, phưỡn cái bụng tròn vo như trống cái, mũi củ tỏi, mí mắt chảy xệ,
miệng chẳng khác gì miệng ếch, không cần hỏi cũng biết đó là ai.
Do đã làm thủ tục chào hỏi từ trước, nên gã Lý cóc cũng biết ý định của ba
người mới đến. Lão dẫn ba người vào phòng, dọc hành lang đặt mấy cỗ
quan tài đựng xác chết, trong phòng tĩnh lặng đến lạ kỳ, ở đó chỉ kê một cái
giường và hai chiếc ghế dài, trên bàn có bát gan xào và một túi thịt dê khá
lớn, còn cả nửa bình rượu trắng.
Lý cóc cười hì hì, hỏi: ‘Thế nào ba vị? Làm một tí chứ hả?”
Tư Mã Khôi và Hải ngọng chạy lông nhông suốt nửa ngày trời, bụng đang
rỗng tuếch, nghe lão mời cũng thấy lạ: “Ái chà! Lão già này cũng hiểu phép
tắc đấy chứ…”, thế là hai người chẳng khách sáo gì, ngồi ngay xuống ghế,
bốc miếng thịt nhét vào miệng, chỉ riêng Cao Tư Dương sau khi bước chân
vào tòa nhà, cô thấy toàn thân không thoải mái, càng chẳng có tâm trạng
nào mà ăn uống, nhưng đến thì đã đến rồi, không thể quay ngoắt đi luôn
được, cực chẳng đã cũng phải ngồi xuống theo hội Tư Mã Khôi.
Lý cóc chỉ mải uống rượu, nhắm mắt dưỡng thần, chẳng nói năng gì nữa,
trông nét mặt rất ư lạnh lùng.