chết, nhưng rất nhanh đã bị bão tuyết chôn vùi, chỉ còn là những gò tuyết
nhấp nhô. Cả khu nông trường số 17 Bắc Đại Hoang rộng lớn, chỉ còn bốn
người chúng tôi cùng một con hồ ly già còn sống. Tiểu hắc cẩu thì bị lạnh
quá mà chết, nó mới được sinh ra không bao lâu, cơ thể hãy còn yếu, cuối
cùng vẫn không qua được một kiếp này. Con hồ ly kia trên người bị lửa
thiêu rụi một mảng lông lớn, cũng không thèm quay đầu lại nhìn chúng tôi,
mà biến mất giữa gió tuyết mờ mịt. Chúng tôi thoát trên trong đường tơ kẽ
tóc, tay chân lạnh cóng tê dại, nắm tay nhau, miễn cưỡng bò trở về địa oa
tử. Cứ tưởng rằng chui vào lại địa oa tử thì có thể yên tâm giữ được cái
mạng này, nhưng không ai ngờ tới, trần nhà địa oa tử đã bị bão tuyết thổi
bay, địa hoả long dùng để sưởi ấm cả căn nhà cũng đã đông cứng từ bao
giờ.
Đầu tôi sắp lạnh cóng thành băng, chợt “ông” lên một tiếng, hỏng bét
rồi! Cái giá rét trong hoang nguyên không nơi nào có thể so sánh được, gió
Bắc kết hợp với tuyết rơi, như hàng nghìn mũi tên, hàng vạn đầu đao đâm
vào cơ thể, đến đám gia súc lông dày da thô còn không chịu được cái lạnh
này nữa là con người? Mọi người thấy tình huống không ổn, vội vàng chia
nhau đi tìm mồi lửa mà trung đội trưởng lưu lại, rồi thay vội mấy bộ tất nỉ
áo bông khác, mang theo một cây đèn pin cỡ lớn, mỗi người vác một bó củi
khô, chuẩn bị tìm nơi kín gió để tránh bão tuyết.
Trần nhà của kho rơm cũng đã mất, may mà vẫn còn tường đất có thể
tạm chống đỡ được gió tuyết, nhưng không tránh khỏi cái lạnh đến cực độ,
bất quá cố được chút nào hay chút ấy, khả năng là sẽ qua được một đêm dài
này, có lẽ đến lúc đấy sẽ có lính biên phòng tới cứu viện cho chúng tôi. Tôi
cố gắng nghĩ đến những viễn cảnh tốt nhất, nhưng mà trận bão tuyết này
phải kéo dài ít nhất năm hay sáu ngày nữa, ở nơi hoang nguyên rộng lớn
kết hợp với thời tiết khắc nghiệt như này sợ rằng sẽ chẳng có cứu binh nào
tới được cả!