Ngày 19 tháng Năm năm 1830, ông Ed. Everett khẳng định trước Hạ viện rằng người Mĩ qua các
kí kết đã thu được 230 triệu acre ở phía Đông và Tây sông Mississippi. Năm 1808, tộc người Osage
nhượng lại 48 triệu acre với số tiền thuê là một nghìn dollar. Năm 1818, tộc người Quapaw nhượng lại
20 triệu acre với số tiền thuê là bốn nghìn dollar; họ được giữ lại một vùng lãnh thổ 1 triệu acre để săn
bắt. Người ta tổ chức tuyên thệ long trọng rằng sẽ tôn trọng cam kết; song chẳng mấy chốc vùng lãnh
thổ giữ lại đó cũng bị chiếm nốt.
Ngày 24 tháng Hai 1830, ông Bell, báo cáo viên của uỷ ban các vấn đề người bản địa của Hạ viện,
đã nói:
Để chiếm lấy đất hoang của người Anh điêng bản địa, chúng ta áp dụng cách thức trả cho
các bộ tộc Anh điêng giá trị vùng săn bắt (hunting ground – tiếng Anh do tác giả chú thích –
ND) của họ sau khi mồi săn đã trốn chạy hết hoặc đã bị diệt. Hành động như vậy có lợi hơn và
chắc là hợp công lí hơn và cũng nhân đạo hơn so với dùng vũ lực để chiếm đất của những
người dân hoang dã. Cách thức mua danh nghĩa sở hữu của người Anh điêng bản địa không gì
khác hơn là một phương thức chiếm hữu mới, dùng tính nhân đạo và tính lợi ích (humanity and
expediency – tiếng Anh do tác giả chú thích – ND) thay thế cho bạo lực, nó cũng trả lại cho
chúng ta quyền làm chủ đất đai chúng ta đòi hỏi vì đã có công khám phá, và cũng bảo đảm cho
chúng ta cái quyền các quốc gia văn minh được xác lập trên lãnh thổ xưa kia do người dân
hoang dã chiếm.
Cho đến hôm nay, nhiều nguyên nhân đã khiến cho trong con mắt người Anh điêng bản địa
giá trị đất đai xưa của họ đã bị thấp đi, và cũng những nguyên nhân đó khiến họ đem bán đất
cho ta dễ dàng hơn. Vậy là lối mua lại quyền chiếm đất (right of occupancy – tiếng Anh do tác
giả chú thích – ND) từ tay người hoang dã rõ ràng là đã chẳng làm chậm trễ quá trình thịnh
vượng của Hoa Kì.
Tài liệu lập pháp Hạ viện khoá 21, số 227, trang 6.