nước và Xã hội), (NXB Đại học Cambridge, 1996), tr.67. Người quan tâm nhất đến chiến
dịch chống rượu mạnh là Ligachev, một người kiêng rượu, và Mikhail Solomentsev, một
người nghiện rượu có tư tưởng cải cách. Một trong những sản phẩm phụ của chiến dịch
này là Gorbachevka, một chất men khiến người ta nói không ngừng đến perestroika! Thất
bại của cuộc cải cách trong việc cải thiện mức sống của nhân dân đã dẫn tới sự các cuộc
xung đột trong giới lãnh đạo, vào tháng 10/1987 tại Ban Chấp hành Trung ương, Boris
Yeltsin đã lên tiếng chỉ trích gay gắt Gorbachev về tiến trình cải cách và một số vấn đề
khác. Hai bên đã không còn chung tư tưởng và phương thức thực hiện, Yeltsin đã bị thôi
giữ chức bí thư thứnhất trong ủy ban đảng Moskva ngay tháng sau đó. Voprosy
ekonomiki, số7, 1987, đã cung cấp nhiều chi tiết về tiền lệ này. Alec Nove, trong cuốn An
Economic History of the USSR 1917-1991 (Lịch sử kinh tế của Liên bang Nga 1917-1991),
(London, NXB Penguin, 1992), tr.397. Các nguồn thu nhập có được từ buôn bán tiếp tục bị
cấm. Luật đối với hoạt động cá thể, tháng 11/1986, đã hợp pháp hóa các hoạt động của
doanh nghiệp tư nhân, chính thức vào năm 1989, người có liên quan chỉ ở con số 300
nghìn. Bước đột phá đối với hoạt động hợp tác xã xuất hiện tháng 5/1988, với việc thông
qua luật hợp tác xã. Các HTX có thể thuê lao động ngoài biên chế không hạn chế số lượng
thông qua việc ký hợp đồng. Do vậy, họ đã phát triển nhanh chóng thành các công ty tư
nhân. Luật về thuê mướn bất động sản, 1989, và luật đất đai, 1990, mở rộng các hoạt
động kinh tế của khu vực phi Nhà nước. Một ước tính về chi phí nhập khẩu thực phẩm,
các thực phẩm khác và các hàng hóa tiêu dùng từ các nước phương Tây trong suốt những
năm 1970 là 180 tỷ USD. E. hevardnadze, Moi vybor, Vzhashchitu demokratiii svobody
(Moskva, Novosti, 1992), tr.107. Brown, The Gorbachev Factor, tr.123, coi phiên họp toàn
thể Ban Chấp hành Trung ương tháng 1/1987 như bước khởi đầu quan trọng cho cải cách
chính trị. Gorbachev, Hồi ký, tr.230. Ông hiểu cần phải dũng cảm đương đầu với những
khó khăn nhưng Bộ Chính trị lại quyết định tách việc cải cách giá cả và việc này sẽ hoãn
lại cho tới khi có quyết định cuối cùng. Nó tương tự như việc châm một mớ bùi nhùi đang
cháy leo lét âm ỉ. Gorbachev, Hồi ký, tr.244, người chỉ ra khát vọng lớn lao của ông và ham
muốn quyền lực không có gì là sai trái. Tr.245, Gorbachev cho rằng kết luận cuối cùng
mà người nào đó rút ra là sự thật Yeltsin không phải là một nhà cải cách. Nếu Gorbachev
tin điều này vào thời điểm đó, nó đã là một đánh giá sai lầm nghiêm trọng. Matlock,
Autopsy on an Empire(Xem xét về một đế chế), tr.115. Thuật ngữ“tôn sùng cá nhân” là
thuật ngữ dựng cho cách lãnh ₫ạo của Stalin. Sách cùng tên, tr.115. Ngày tiếp theo,
George Shultz, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã gặp Gorbachev nhưng ông dường như không
chú ý. Shultz phàn nàn với Matlock rằng Gorbachev đã gợi lại cho ông hình ảnh một đấu
sĩ không bao giờ biết bị đánh bại là gì, một con người tự tin và biết đánh giá. Lúc đó ông
hành động như một người đang giương buồm đẩy con thuyền ra khơi. Tại Đại hội Đảng
lần thứ 27 (6/3/1986), người ta tự hào tuyên bố: vấn đề dân tộc, vấn đề còn sót lại từ quá
khứ, đã được Liên bang Xô viết giải quyết trọn vẹn và thành công Cuộc chiến tranh tại
Afghanistan đã khiến Liên bang Xô viết phải gánh chịu chi phí 3-4 tỷ rúp hàng năm
(tương đương với 4-6 tỷ đô la). N. I. Ryzhkov, Perestroika, Istoriya predatelstv (Moskva,
Novosti, 1992), tr.232. Casey biết CIA đang để rò rỉ thông tin mật nhưng không biết
Aldrich Ames, một nhân viên CIA đầy kinh nghiệm đã tiếp cận với KGB. Ames cung cấp
cho Moskva rất nhiều thông tin quý giá trong suốt thời kỳ Gorbachev cầm quyền, cho