Neispolzovanny shans (Moskva, NXB Politizdat, 1991), tr.123. Manfred Wilke, “Hard
facts” (Sự thật khó chịu), German Comments (Bình luận của người Đức), số 42, 4/1996,
tr24-25. Tình hình nghiêm trọng là Bộ Chính trị đã không thông báo cho các thành viên
của Ủy ban Trung ương SED về bản báo cáo này. Các cuộc thương lượng với Tây Đức bắt
đầu yêu cầu những người Tây Đức tài trợ 3 tỷ Đê-mác hàng năm. Tác giả đã tham gia một
cuộc hội thảo ở Reichstag về “40 năm nước Đức chia rẽ” khi Bức tường sụp đổ, bật tín
hiệu cho việc bắt đầu chấm dứt sự chia rẽ nước Đức. Thời gian này, Gorbachev là một
trong những vị anh hùng. Những người tham gia nhận thấy ngày đáng ghi nhớ này là một
trong những kết quả về đường lối chính trị mới của ông. Senn, Gorbachev’s Failure (Sự
thất bại của Gorbachev), tr.130. Gorbachev đã ký một nghị định và nghị định này được gửi
tới Vilnius dưới dạng một bức điện tín. Tư lệnh không quân Xô viết là Tướng Dzhokhar
Dudaev, sau này là Tổng thống Chechnya. Ông này không cho phép có thêm quân Xô viết
đổ bộ vào Estonia, do vậy không có bạo động ở Tallinn. Gorbachev, Hồi ký, tr.579.
Gorbachev nói thêm rằng lúc đó ông vẫn rất tin Yazov. Chernyaev gọi các bài diễn văn của
Pugo và Yazov tại phiên họp của Xô viêt tối cao là “đần độn, hỗn láo và đầy giả dối”.
Tschernajew, Die letzten Jahre einer Weltmacht, tr.344. Một số người Nga thân Xô viết
quá thất vọng trước sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc ở Lithuania bắt đầu rời khỏi
Lithuania. Năm 1990, dòng người khoảng 6.221 người rời đi nhưng năm 1991, con số này
giảm xuống 5.504. Năm 1992, con số này là khoảng 13.672 người. Lính mũ nồi đen thuộc
Bộ Nội vụ. OMON đại diện cho đơn vị bán quân sự, có nhiệm vụ đặc biệt. Matlock,
Autopsy on an Empire, tr.795. Sau này, ông thông báo với đại sứ Mỹ rằng lúc đó ông
không có lòng tin tôn giáo. Song, ông dần dần tin vào Chúa và giá trị của những lơi cầu
nguyện sau khi ông có cuộc sống an nhàn sau cuộc đảo chính tháng 8/1991. Tschernajew,
Die letzten Jahre einer Weltmacht, tr. 373. Kohl nói với Gorbachev rằng nếu ông tham
gia cuộc gặp London với tư cách quan sát viên, ông sẽ trở thành thành viên chính thức
trong cuộc gặp năm 1992 tại Munich. Matlock, Autopsy on an Empire, tr.538. Niềm tin
của bà Thatcher vào Mikhail Gorbachev bị lung lay sau khi hai bên rời khỏi văn phòng.
Năm 1992, Vladimir Bukovsky chỉ cho Thatcher bản sao một tài liệu có chữ ký của
Gorbachev, cam kết chi 1 triệu đôla cho Hiệp hội Công nhân mỏ do Arthur Scargill lãnh
đạo, trong khi thợ mỏ đang tiếp tục đình công chống lại chính phủ của bà. Gorbachev đã
thú nhận với bà không hề có bất cứ một quỹ nào của Xô viết tài trợ cho công nhân mỏ
Anh chống lại bà. Không chắc chắn quỹ này có số tiền đó hay không. Một số tác giả băn
khoăn liệu Gorbachev có đóng góp một phần trong nỗ lực khôi phục luật và trật tự bằng
cách tách riêng văn phòng tổng thống với nội các của mình. Nội các của ông, được trao
một số đặc quyền, sẽ đưa ra một vài cách thức mạnh mẽ để cứu lấy nhà nước Xô viết.
Michael Urban, Vyacheslav Igrunov và Sergei Mitrokhin, The Rebirth of Politics in Russia
(Sự tái sinh các nền chính trị ở nước Nga), (Cambridge, NXB ĐH Cambridge, 1997),
tr.247; Yu. Burtin, Demokraticheskaya Rossiya (Nước Nga dân chủ hóa), 3/11/1991. 1.
Elizabeth I (1533-1603): là Nữ hoàng Anh và Nữ hoàng Ireland từ 1558 cho đến khi băng
hà. Bà trở nên bất tử với tên Faerie Queen trong thiên sử thi cùng tên của Edmund
Spenser. 2. Hồng Y Richelieu (1585-1642): không là vua, mà là thủ tướng trong thời kỳ
làm vua của người con trai bất tài của vua Henri IV là vua Louis 13. Từ năm 1624-1642,
Hồng y Richelieu đã cai trị nước Pháp theo ý mình và muốn củng cố vương quyền trung