Sau mấy lần huyết chiến với quân thù, lúc này lực lượng nghĩa
quân đã suy yếu nhiều. Tính sao đây để cứu vãn tình trạng hiểm
nghèo “ngàn cân treo sợi tóc?”. Làm sao đây để bảo toàn lực lượng đợi
thời cơ đến tiến lên tiêu diệt địch?... Bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong
đầu óc vị chỉ huy trẻ tuổi. Trải nhiều đêm đo đắn suy tư, cân nhắc
mọi bề, Triệu Quang Phục thấy nếu cứ dàn thế trận để đánh địch,
trong khi lực lượng ta đã mòn mỏi và địch còn đang sung sức thì
không tránh khỏi nguy hiểm. Và ông đi đến một quyết định sáng
suốt, tạm thời lui quân về lập căn cứ ở Dạ Trạch quê nhà để nuôi
dưỡng binh lực đánh địch lâu dài.
Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Hưng Yên) là một vùng đồng lầy mênh
mông, lau sậy um tùm. Ở giữa là một bãi phù sa, có thể làm ăn sinh
sống được. Đường vào bãi rất kín đáo, khó khăn. Chỉ có dùng
thuyền độc mộc nhẹ lướt trên cỏ nước, theo mấy con lạch nhỏ thì
mới tới được. Triệu Quang Phục đã sinh ra và lớn lên giữa vùng đầm
lầy nước đọng này, phần đông nghĩa quân lại là người cùng họ cùng
quê nên rất am hiểu địa thế và đường đi lối lại nơi đây. Được nhân
dân hết lòng đùm bọc, Triệu Quang Phục đã bí mật rút quân vào
đóng ở Dạ Trạch. Ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập
vừa phát bờ cuốc ruộng trồng lúa, trồng khoai để tự túc binh
lương. Trời còn sáng, không nổi lửa để địch phát hiện thấy chỗ trú
quân. Khi màn đêm buông xuống, nghĩa quân mới nấu nướng,
phần ăn phần nắm để dành. Có đêm thì nghỉ ngơi sau một ngày
cuốc ruộng phát bờ. Có đêm thì chèo thuyền ra đánh úp doanh trại
địch. Cứ như vậy với lối đánh “ngày ẩn tối ra” nghĩa quân diệt được
khá nhiều địch, thu nhiều vũ khí, tích thêm lương thực. Quân nhà
Lương ngày thêm thua đau mà quân ta thì càng đánh càng mạnh
dần lên. Nhân dân hết lòng yêu mến che chở nghĩa quân và cho
con em gia nhập đoàn quân yêu nước. Dân quanh vùng tặng Triệu
Quang Phục danh hiệu: “Dạ Trạch vương” (Vua Đầm đêm). “Đầm