nhà trường Pháp. Tuy là “công nhân áo trắng”, anh sống gần gũi đội viên vì
đa số là dân lao động thành thị. Tư Huỳnh là dân giang hồ, chịu anh hưởng
của “Từ Hải chết đứng chớ không chết quỳ”, khi lâm trận, đứng thẳng
người mà chỉ huy. Tư Huỳnh chỉ phục có một người và người đó là Bảy
Viễn. Tư Huỳnh đã có lần thích huyết ăn thề kết nghĩa anh em với Bảy
Viễn. Lễ thích huyết đó là kỷ niệm sống mãi với anh.
Trong ba đại đội này, nổi bật nhất là đại đội 2 của Ba Trứ. Nổi bật ở Ban
chỉ huy. Ba người đều là công nhân. Đại đội phó là Nguyễn Huỳnh Ngân,
công nhân ngành mộc ở Gò Công. Chính trị viên là Huỳnh Văn Được, cùng
tốt nghiệp trường Bá nghệ như Ba Trứ và Hai Lung. Vì cùng chung một
thành phần giai cấp, một trình độ văn hóa nên Ban chỉ huy đại đội 2 sát
cánh với nhau và gần chi đội phó Hai Lung hơn là Mười Lực. Trong khi đó,
hai đại đội kia, nhất là đại đội của Bảy Môn gần Mười Lực hơn Hai Lung.
Vấn đề tình cảm rất quan trọng. Vì nhóm Hai Lung, Ba Trứ không phải là
Bình Xuyên và lúc nào họ cũng nặng tình quê hương là Gò Công. Nguyện
vọng của họ là đóng ở Lý Nhơn dọc sông Soài Rạp để được nghe hơi hớm
của tỉnh nhà ở bên kia bờ sông. Nguyện vọng ấy vài tháng sau đã được mãn
nguyện. Sau thời gian rèn cán chỉnh quân, Chi đội 3 “xuống núi”; đại đội 1
và 3 đóng ở Phước An, còn đại đội 2 của Ba Trứ đóng tại Lý Nhơn. Công
tác đáng nhớ của Ba Trứ là liên lạc với Ba Son, đưa thợ rành nghề ra khu.
Nhờ có anh Ngô ở hãng FACI mang máy móc ra Lý Nhơn mà đại đội Ba
Trứ có công binh xưởng sửa chữa súng và sản xuất lựu đạn. Bình công
xưởng này được dựng lên ở các gò núi đất mà một số bô lão quả quyết ngày
xưa có lúc Trương Định đã đóng quân ở đó trước khi hy sinh tại Đám Lá
Tối Trời bên Gò Công. Gần một trăm năm sau, mảnh đất Lý Nhơn vẫn còn
là căn cứ của con cháu Trương Định: tiểu đoàn 5, bộ đội chủ lực của Gò
Công cũng đóng ở Lý Nhơn. Nơi đây có lúa gạo tôm cá, than củi, bộ đội có
thể tự túc, bồi dưỡng giữa hai trận chiến đấu.
Sau khi Ba Dương tử trận, Pháp đánh mạnh vào Rừng Sác, Năm Hà hợp
các gia tướng đề nghị đánh một trận lấy uy thế. Mười Lực nắm Chi đội 3
mạnh nhất, hiệp cùng Chi đội 2 của Năm Chảng, bàn kế hoạch đánh tàu
trên sông Lòng Tàu. Mười Lực làm chỉ huy trưởng, Năm Chảng chỉ huy