NGƯỜI VIỆT - CHỦ NHÂN CỦA KINH DỊCH VÀ CHỮ VUÔNG - Trang 125

Bàn lại

Tên 12 địa chi và 10 thiên can

Trước hết xin bàn về chữ

支 CHI và 干 CAN. Theo tôi, chữ Chi 支 vốn xưa

kia của người Việt đọc là Nhánh, về sau khi phương Bắc chiếm lấy rồi đọc
là Chi, người Việt sợ mất âm cũ nên thêm vào Nhánh để lưu lại âm xưa chứ
về mặt ngữ âm nó chẳng có tiêu chí gì để Chi đi với nhánh cả. Chuyện này
không phải là hiếm như: Di dời, sư sãi, tùy theo v.v... Có thể có người cho
rằng chữ Chi này mới có nghĩa là Nhánh. Theo tôi chữ Chi này thuộc bộ
Mộc, có nghĩa là nó có sau khi chữ Vuông đã phát triển rồi nên người ta
thêm bộ Mộc để hệ thống hóa chữ viết, vì các con chữ buổi ban đầu vốn
không có bộ.

Còn chữ Can

干 vốn đọc là Cành, về sau phương Bắc không dùng nghĩa

này nữa, có lẽ vì sợ người Việt nhận ra nguồn gốc của nó nhưng ta có thể
tìm thấy nét nghĩa này trong chữ Can

竿 = Cây sào. Vì sao chữ Can 竿 với

bộ trúc đầu lại có nghĩa là cây sào nếu như không phải vì chữ CAN

干 vốn

có đọc là CÀNH, nghĩa là cành cây, ở đây là cành trúc hay tre

竿 thì dài nên

mới có nghĩa cây sào.

Như vậy thật sự xưa kia hai chữ CAN – CHI vốn là chữ của người

Lạc Việt đọc là CÀNH – NHÁNH.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.