Bàn lại
Tên 12 địa chi và 10 thiên can
Trước hết xin bàn về chữ
支 CHI và 干 CAN. Theo tôi, chữ Chi 支 vốn xưa
kia của người Việt đọc là Nhánh, về sau khi phương Bắc chiếm lấy rồi đọc
là Chi, người Việt sợ mất âm cũ nên thêm vào Nhánh để lưu lại âm xưa chứ
về mặt ngữ âm nó chẳng có tiêu chí gì để Chi đi với nhánh cả. Chuyện này
không phải là hiếm như: Di dời, sư sãi, tùy theo v.v... Có thể có người cho
rằng chữ Chi này mới có nghĩa là Nhánh. Theo tôi chữ Chi này thuộc bộ
Mộc, có nghĩa là nó có sau khi chữ Vuông đã phát triển rồi nên người ta
thêm bộ Mộc để hệ thống hóa chữ viết, vì các con chữ buổi ban đầu vốn
không có bộ.
Còn chữ Can
干 vốn đọc là Cành, về sau phương Bắc không dùng nghĩa
này nữa, có lẽ vì sợ người Việt nhận ra nguồn gốc của nó nhưng ta có thể
tìm thấy nét nghĩa này trong chữ Can
竿 = Cây sào. Vì sao chữ Can 竿 với
bộ trúc đầu lại có nghĩa là cây sào nếu như không phải vì chữ CAN
干 vốn
có đọc là CÀNH, nghĩa là cành cây, ở đây là cành trúc hay tre
竿 thì dài nên
mới có nghĩa cây sào.
Như vậy thật sự xưa kia hai chữ CAN – CHI vốn là chữ của người
Lạc Việt đọc là CÀNH – NHÁNH.