NGUỒN GỐC NHÃN HIỆU - Trang 155

qua tạo ra sản phẩm mới mà là kênh phân phối mới. Ví dụ như Dell
với hình thức bán máy tính cá nhân trực tiếp hay Costco với việc lập
ra các câu lạc bộ kho chứa hàng, hay bất cứ hình thức nào trong bất
cứ công đoạn nào của marketing.

Hanes từng là nhãn hiệu số một về sản phẩm quần tất được

phân phối thông qua các cửa hàng bách hóa. Nhưng sau đó, phụ nữ
không thường xuyên mua sắm tại các cửa hàng bách hóa nữa. Vậy là
Hanes quyết định cho ra đời một siêu thị, với cái tên L’eggs và sau
đó trở lại là nhãn hiệu quần tất hàng đầu. Như vậy là không phải
sản phẩm mới mà chỉ là kênh phân phối mới cùng với một cái tên
mới.

Paul Mitchell đã trở thành nhãn hiệu hàng đầu về các sản phẩm

chăm sóc tóc thông qua hàng trăm nghìn các thẩm mỹ viện tóc.
Nhưng sau đó, công ty tư nhân Paul Metchell Systems chuyên về sản
phẩm chăm sóc tóc đã mang lại doanh số 600 triệu đô la Mỹ một
năm.

Trong lĩnh vực y tế, các công ty đã gần như tạo ra một kênh

phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng. (Botox là một ví dụ). Nhờ
việc tiếp thị trực tiếp sản phẩm thuốc của mình tới người tiêu
dùng, các công ty dược đã tạo nên những nhãn hiệu mạnh. Đương
nhiên quyết định cuối cùng là của các giám đốc marketing, nhưng
họ có thể rất dễ bị sở thích của khách hàng ảnh hưởng.

Một ví dụ về việc tạo nhãn hiệu mới bằng kênh phân phối là

hãng AmeriScan. Hãng này đã cung cấp dịch vụ chụp cắt lớp kỹ
thuật cao trực tiếp cho khách hàng. Với 12 trung tâm chụp cắt lớp
đã đi vào hoạt động (và sẽ còn nhiều hơn trong tương lai),
AmeriScan hi vọng có thể xây dựng một hệ thống trung tâm trên
khắp đất nước, cung cấp cả kỹ thuật chụp CT (trước đây là CAT),
MRI và EBT (kỹ thuật chụp bằng các tia điện tử). Điều này phù hợp

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.