Nguyên Hồng còn tham gia phụ trách trường bồi dưỡng lực lượng viết văn
trẻ (của Hội Nhà văn Việt Nam), Ban Văn học công nhân và là Chủ tịch
Hội Văn nghệ Hải Phòng.
Những năm cuối đời Nguyên Hồng về sống, sáng tác tại Tân Yên (Hà
Bắc) và mất tại đó. Nhà văn đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn
học - nghệ thuật (đợt I, 1996).
Những tác phẩm đã xuất bản:
Bỉ Vỏ (tiểu thuyết, 1938);
Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941);
Những ngày thơ ấu (truyện ngắn, 1941);
Qua những màn tối (truyện, 1942);
Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942);
Quán nải (tiểu thuyết, 1943);
Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943);
Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943);
Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943);
Vực thẳm (truyện vừa, 1944);
Miếng bánh (truyện ngắn, 1945);
Ngọn lửa (truyện vừa, 1945);
Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946 - 1961);
Đất nước yêu dấu (ký, 1949);
Đêm giải phóng (truyện vừa, 1951);
Giữ thóc (truyện vừa, 1955);
Giọt máu (truyện ngắn, 1956);
Trời xanh (thơ,1960);
Sóng gầm (tiểu thuyết, 1961);
Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1963);
Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1963);
Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 1971);
Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, 1972);
Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973);
Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973);