Những câu hỏi thường gặp về Linux
Một trình tự động gắn kết
7
các phân vùng NFS
8
là một phần không thể thiếu đối với hầu hết các bản
phân phối.
Hơn nữa, hiện đã có khá nhiều các dự án về hệ thống tập tin ảo. Một trong số đó là Linux Logical
Volume Manager
có ở http://linux.msede.com/lvm/ .
H:
Linux có hỗ trợ mã hóa hệ thống tập tin không?
Đ:
Có chứ. Ví dụ như ppdd có ở http://pweb.de.uu.net/flexsys.mtk/ .
H:
Những thông điệp “rác” về Inode, Block, và những thứ tương tự là gì?
Đ:
Hệ thống của bạn đã bị lỗi ở hệ thống tập tin. Nguyên nhân có thể là không shutdown Linux trước
khi tắt máy hay khởi động lại máy. Bạn có thể dùng trình shutdown để làm việc này. Trình này có trong
các gói cài đặt util-linux, thường kèm sẵn trên sunsite và tsx-11.
Nếu bạn may mắn, chương trình fsck (hoặc e2fsck hoặc xfsck tùy nếu fsck không có trên máy tính của
bạn) sẽ sửa lại các lỗi trong hệ thống tập tin. Nếu bạn kém may mắn, hệ thống tập tin sẽ trở nên vô giá
trị, và bạn sẽ phải tái định dạng lại đĩa bằng mkfs (hoặc mke2fs, mkxfs, v.v...), và khôi phục lại từ bản
sao lưu dự phòng trước đó.
Ghi chú: Đừng cố kiểm tra hệ thống tập tin được gắn liền với phân vùng root trong chế độ đọc/ghi, nếu
bạn không thấy:
VFS: mounted root
... read-only
lúc khởi động.
H:
Tại sao vùng nhớ ảo của tôi không hoạt động?
Đ:
Khi bạn khởi động (hay khi cho bật chế độ swapping - tức là cho phép sử dụng vùng nhớ ảo), bạn sẽ
thấy:
Adding Swap: NNNNk swap-space
Nếu bạn không thấy bất kỳ thông điệp nào hết, có thể bạn đã thiếu
swapon -av
(lệnh để cho phép sử dụng vùng nhớ ảo) trong tập tin
/etc/rc.local
hoặc
/etc/rc.d/*
(các tập tin
scripts chứa các lệnh được thi hành khi hệ thống khởi động), hoặc đã quên thêm vào một dòng trong
/etc/fstab
để gắn kết phân vùng được sử dụng làm vùng nhớ ảo lúc khởi động, ví dụ như:
28