mạnh vào các câu hỏi “ai, làm gì, khi nào” khi phân tích và tăng hiệu quả
hoạt động trong các tổ chức ưu việt. Các mô hình đưa ra nhằm giải quyết
các vấn đề như: xác định mục tiêu của công ty dựa trên sứ mệnh và tầm
nhìn của công ty đó, từ đó đưa ra tầm nhìn dài hạn của công ty, hoặc nhấn
mạnh vai trò bổ trợ lẫn nhau của một nhóm...
Như chính các tác giả cũng đã nói trong lời tựa cho cuốn sách, các mô hình
được đưa ra không nhằm cung cấp “một đơn thuốc đặc trị giúp các hệ
thống quản lý và tổ chức tốt”. Vì vậy, các mô hình này không phải để các tổ
chức, công ty sao chép nguyên dạng rồi áp dụng vào tổ chức hay công ty
của mình, mà trước hết, các mô hình đó chính là một thước đo để họ tự
đánh giá về tổ chức. Từ các mô hình cơ bản được đưa ra, các công ty, tổ
chức dễ dàng thấy được họ đang theo đuổi mô hình nào, có những điểm
mạnh, điểm yếu và còn khiếm khuyết gì. Bên cạnh đó, việc đưa ra 60 mô
hình căn bản cũng giúp doanh nghiệp lựa chọn được mô hình tối ưu hoặc
điều chỉnh lại tổ chức sao cho hiệu quả nhất.
Có thể hình dung khi một công ty đang trong giai đoạn xác định chiến lược,
họ có thể tham khảo các mô hình trong phần chiến lược để xác định xem
công ty đang thực hiện theo mô hình nào: công ty sẽ nhận định được mô
hình nào giống với mình nhất hoặc chính xác là mình đang thực hiện theo
mô hình nào. Từ đó, xác định được điểm mạnh, điểm yếu của mô hình đó
để khắc phục, hoặc điều chỉnh mô hình đang áp dụng cho phù hợp.
Trong khi đưa ra các mô hình cơ bản, các tác giả cũng phân tích rất chi tiết
các ưu, nhược điểm của mô hình đó, những hạn chế và khó khăn khi thực
hiện nó. Điều này giúp các doanh nghiệp đưa ra quyết định đúng đắn là áp
dụng mô hình nào vào tổ chức và khai thác tối ưu được mô hình đó.
Cuốn sách này có thể coi là một kim chỉ nam cho các doanh nghiệp Việt
Nam đang trong quá trình phát triển, còn chưa có được những chỉ dẫn bài
bản để tổ chức một doanh nghiệp hiệu quả.