NƯỚC ĐỨC THẾ KỶ XIX - Trang 123

nó. Ông tin tưởng tuổi thơ là thời gian để trẻ em học thông qua vui chơi
và muốn trẻ em sẽ phát triển như những cây nhỏ trong vườn. Kindergarten
đã truyền bá nhanh chóng trực tiếp hay qua các học trò của Fröbel khắp
thế giới, từ những năm 1870 sang đến Mỹ, sau đó đến châu Á và châu
Phi. Các thầy giáo Nhật Bản Minh Trị đã học mô hình này tại St. Louis và
ở Viện Froebel Chicago. Trung quốc mượn mô hình kindergarten kiểu
Nhật dạy về đạo đức khổng giáo về trung thành với gia đình, lòng kính
trọng người lớn tuổi và hoàng đế. Kindergarten Mỹ dạy lòng ái quốc,
chuyện dân gian và khuyến khích phát triển cá nhân tính. Mỗi quốc gia
đưa vào nội dung triết học muốn dạy của mình.

Samuel Morse: biểu diễn điện báo viết ở thành phố New York.

1838: Friedrich Wilhelm BesselWilhelm Struve đo thị sai

(Parallaxe) đầu tiên các hành tinh cố định (Fixstern) bằng kính đo mặt trời
của Fraunhofer.

Louis J.M. Daguerre phát minh kỹ thuật chụp ảnh và rửa phim.

1838: Matthias Jacob Schleiden phát hiện tế bào là các phần tử cơ

bản (Grundbestandteile) của thảo mộc. Ông là một luật sư mà việc nghiên
cứu khoa học chỉ là hobby.

Johannes Müller xuất bản “Handbuch der Physiologie” (Sổ tay của Sinh
lý học). Virchow khen là “Quyền sách nền tảng cho tất cả giáo dục chúng
ta”.

1839: Theodor Schwann chứng minh tế bào cũng là phần tử cơ bản

của cơ thể động vật. Kết quả của Schwann và Schleiden là cơ sở của
ngành sinh học (Biologie)

Johann Lukas Schönlein nhận ra lao là một bệnh đặc thù, và gọi nó là
Tuberculosis. Trước đó người ta gọi là “consumption”. ông có công lớn
trong việc hiện đại hóa phương pháp chẩn đoán bệnh của ngành y tế Đức.
Virchow là học trò ông.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.