Xuất khẩu tăng theo hàm số mũ
Sau chiến tranh, ngay khi vừa bắt đầu trở lại buôn bán với thế giới, nước Nhật công
nghiệp chỉ có một ý tưởng trong đầu, một ý tưởng kiên định: xuất khẩu. Trong các
phòng làm việc của MITI, trong hành lang các xí nghiệp lớn, trong các xưởng máy,
đâu đâu cũng chỉ một khẩu hiện: xuất khẩu. Xuất nữa, xuất nhiều hơn, xuất mãi để làm
giàu đất nước. Nhưng, để có thể tự túc và tích lũy của cải cho nước Nhật, phải thực thi
một điều kiện: xuất nhưng không nhập. Hoặc, nhập càng ít càng tốt. Cấm nhập hàng
tiêu dùng. Cũng chẳng cần phải thuyết phục dân chúng. Một cách tự phát, dân chúng
Nhật hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp tái thiết đất nước. Kết quả là trong nhiều thập kỷ, sản
phẩm nước ngoài dù cùng chất lượng cùng giá, không có cơ may nào có được khách
hàng ở Nhật. Tình hình ấy tới nay vẫn còn đúng một phần. Ngoài những luật lệ mà
MITI đặt ra để bảo hộ các ngành công nghiệp quốc gia, lại còn thêm tinh thần ái quốc
hoàn toàn tự nhiên, không cưỡng ép của người dân Nhật – một tình cảm có lẽ chưa bao
giờ có ở Mỹ.
Khởi đầu rất chậm, bởi vì hầu như hồi ấy ở Nhật tất cả đều thiếu. Để hoạt động,
công nghiệp cần có nguyên liệu, năng lượng, máy công cụ và bộ phận rời. Thời kỳ
thiếu thốn ấy kéo dài đủ để chính phủ và các xí nghiệp nắm được những công nghệ cần
thiết, hầu tạo nên một tiềm lực sản xuất có khả năng cung ứng liên tục cho xuất khẩu
hàng loạt. Rồi dần dần đến thời kỳ gặt hái những lợi lộc từ nỗ lực đã bỏ ra. Rồi đến
thời kỳ sung túc đến sỗ sàng, gần như bẩn thỉu. Nhật và CHLB Đức là hai nước duy
nhất trong số bảy nước giàu nhất phương Tây tích lũy được thặng dư mậu dịch suốt
thời kỳ 1980-1989. Cả hai đã kết thúc năm 1989 với những con số kỷ lục.
Nước Nhật đã làm giàu như thế đấy. Nước Nhật, với 120 triệu dân, đã trở thành nhà
buôn khổng lồ hàng thứ ba thế giới sau Mỹ và CHLB Đức. Trong thập kỷ 1970-1979,
Nhật Bản có thặng dư mậu dịch tổng cộng 22 tỷ đô la. Chẳng phải tệ đối với một nước
mà người ta cho rằng, hơn bất cứ nước nào trên thế giới, phải chịu đựng hai cơn sốt
dầu lửa đặc biệt nghiêm trọng. Thực ra, vốn đã quen với thặng dư mậu dịch liên tục,
Nhật Bản cũng đã ghi nhận bốn năm thâm hụt mậu dịch trong thời kỳ ấy. Nhưng, từ
1980, họ đã bay tới những đỉnh cao gây sửng sốt. Tổng kết ngoại thương Nhật thời kỳ
1980-1989 nói lên nhiều điều, bởi vì mức thặng dư tổng cộng lên tới 408,5 tỷ đô la !
[32]
.
Chỉ riêng năm 1989, thặng dư mậu dịch của Nhật đã lên tới 77,13 tỷ đô la
[33]
.
Không biết có phải do áp lực của nước ngoài hay không, thặng dư mậu dịch của Nhật
năm 1990 đã giảm xuống còn 63,9 tỷ đô la. Xuất khẩu tăng 3,9% và đạt tổng cộng 280
tỷ đô la, trong khi nhập khẩu tăng 12,3%, lên tới 216 tỷ đô la.
Ngay từ sau chiến tranh, Nhật Bản đã xuất khẩu sang các nước láng giềng gần gũi ở
châu Á. Không có khoản lợi nhuận nào được coi là nhỏ cả và tất cả các vụ kinh doanh,
dù khiêm tốn đến đâu, đều đáng thực hiện. Nhật không xem nhẹ nước nào. Ở khắp nơi,
các con số không ngừng tăng vọt, dù lịch sử châu Á có những điều bất lợi đè nặng lên
nước Nhật. Các chế độ chính trị khác biệt hoặc công khai thù địch không phải là
những rào cản đủ để làm run sợ các thương gia Nhật. Sau khi nghiên cứu thị trường và
những công tác thăm dò, trong nhiều trường hợp, chẳng mấy chốc Nhật Bản đã chiếm
vị trí thống trị.