NƯỚC NHẬT MUA CẢ THẾ GIỚI - Trang 86

bội đến thù địch hoặc phẫn nộ công khai. Những phản ứng tai hại như thế đặc biệt rõ ở
Mỹ. Dù vẫn còn một số người lạc quan kiên định, một cuộc điều tra do hệ thống truyền
hình Mỹ ABC và báo Washington Post thực hiện chắc hẳn đã phải mở mắt cho họ:
75% người Mỹ cho rằng sức mạnh kinh tế của Nhật là mối đe dọa chính đối với an
ninh của Mỹ; chỉ có 21% cho rằng mối đe dọa chính là sức mạnh quân sự của Liên Xô

[35]

.

Mọi người kết án Nhật Bản là thi hành chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Khắp nơi trên

thế giới, những chính khách hàng đầu, bình thường dè dặt hơn, đã không ngần ngại kết
án người bạn hàng quá tham lam này. Mỹ, tuy là đồng minh chiến lược của Nhật,
nhưng nằm trong số những kẻ khai hỏa đầu tiên. Quả thật, thâm hụt của Mỹ trong
buôn bán với Nhật đã vượt quá xa cái ngưỡng cho phép. Dưới áp lực của Quốc hội bất
bình về cách cư xử của Nhật, các nhà lãnh đạo hành pháp Mỹ, dù còn thiện cảm với
Nhật, đã phải đưa ra những lời cảnh báo rất cứng rắn. Thâm hụt buôn bán với Nhật
trong năm 1989 bằng một nửa tổng số thâm hụt buôn bán của Mỹ. Vả lại, dường như
Mỹ là nạn nhân chính của Nhật bởi vì năm 1989, dù thặng dư mậu dịch của Nhật có
giảm 16,7% so với năm 1988, thặng dư của Nhật trong buôn bán với Mỹ chỉ giảm
5,5%, tức còn khoảng 55 tỷ đô la. Thặng dư mậu dịch của Nhật đối với Mỹ chiếm hơn
70% tổng số thặng dự, so với 61% vào năm 1988. Mặt khác, chính phủ Mỹ cũng có cái
cớ tốt để buộc tội Nhật đóng cửa thị trường của mình cho các sản phẩm nước ngoài,
bởi vì sản phẩm của Mỹ chỉ chiếm khoảng 1% thị trường Nhật Bản trong khi sản phẩm
của Nhật chiếm tới 10% thị trường Mỹ.

Nichibei Senson wa Owateinei: chiến tranh giữa Nhật và Mỹ vẫn chưa kết thúc.

Tựa cuốn sách của Jun Eto, giáo sư môn văn học đối chiếu tại Viện công nghệ Tokyo,
đã nói lên bầu không khí đó. Cuối năm 1989, do các tranh chấp về buôn bán, Nhật Bản
và Mỹ đã tiến gần hơn bao giờ hết – kể từ sau chiến tranh – đến một cuộc xung đột
công khai mới. Cuộc xung đột có tính chất thương mại, có nguy cơ trở nên tệ hại hơn.
Quốc hội Mỹ nổi nóng, đưa ra những lời buộc tội với giọng điệu gần với sự nhục mạ
và tối hậu thư. Để dư luận chú ý, các nghị sĩ chẳng đã chà đạp và giận dữ đập nát,
trước các ống kính truyền hình, những Radiocassette Toshiba trên các bậc thềm của
điện Capitole đó sao ? Cảnh tưởng khó tin ấy được các màn ảnh truyền hình ở Nhật
chiếu rộng rãi, đã gây chấn động trong dư luận Nhật Bản. Tháng 10/1989, đại diện đặc
biệt của tổng thống Mỹ về thương mại, Carla Hills, ngầm kết án Nhật Bản làm cho
quan hệ thương mại quốc tế xấu đi. Tokyo đo lường được mối nguy, bởi vì vào giữa
tháng 3/1990, Bộ trưởng ngoại giao Nhật Taro Nakayama tuyên bố rằng quan hệ song
phương Mỹ-Nhật có thể bị ảnh hưởng nghiệm trọng nếu chính phủ Mỹ không nhanh
chóng được thỏa mãn về việc mở cửa thị trường trong nước của Nhật Bản. “Chúng ta
phải ý thức rằng vấn đề này dẫn đến tình hình khủng hoảng trong quan hệ Nhật-Mỹ.
Sự bất bình tại Quốc hội Mỹ tăng lên và chực bùng nổ”, ông Nakayama đã nhấn mạnh

như vậy trong một cuộc họp nội các

[36]

. Ngày hôm sau, Bộ trưởng thương mại Mỹ,

Robert Mosbascher, bày tỏ hi vọng rằng Nhật Bản cuối cùng đã hiểu được sự “khẩn
cấp” của một giải pháp. Nếu không muốn bị trả đũa nghiêm khắc, Nhật phải làm một
cử chỉ nào đó.

Những điểm tranh chấp chủ yếu là gì ? Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Nhật trong

những lĩnh vực nào là đáng trách nhất ? Ở Washington, người ta đặc biệt nhấn mạnh
đến: siêu máy tính, vệ tinh, sản phẩm nông nghiệp, xây dựng và phân phối – những
lĩnh vực mà rõ ràng Nhật duy trì những rào chắn mậu dịch đặc biệt không thể chấp

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.