phép lương tâm đã, kẻo a dua để lấy sĩ diện sằng mà kéo, thời bạn tôi đến
đi đời mất thôi. Tội nghiệp!
Những thư từ của tôi gửi cho Kim Chi toàn là cái bả để dắt Kim Chi
vào cạm. Chắc ngài cũng thừa hiểu cái mục đích của anh con trai chim gái.
Một ngày kia mục đích đã đạt, thì thôi, ếp truy phong xin bái ngảnh ái tình!
Cho nên không có trai gái nào nhân tình nhân ngãi với nhau đến già bao
giờ. Thế nhưng bao giờ bên con trai cũng phải dùng lời đường mật để vờ
tính cuộc dài lâu, các cô nhẹ dạ là mắc tuốt.
Tôi hiểu cái tâm lý ấy, cho nên tôi cứ cái chương trình ấy mà tiến
hành. Thư từ trước còn đứng đắn, sau lả lơi dần; có khi bịa ra cái chiêm bao
đêm qua, cùng Kim Chi đi chơi buổi tối, để tỏ cho Kim Chi biết lúc nào
mình cũng nghĩ đến mà thành mộng, và để dò ý Kim Chi ra sao. Cái chiêm
bao thứ nhất còn là đi chơi, nói chuyện triết lý văn chương. Cái chiêm bao
thứ hai, đã pha mùi tình tự nhảm nhí.
Kim Chi trả lời thương tôi buồn, mà tiếc cái mộng thú vị thế mà chỉ có
mình tôi được thấy. Tôi hiểu ý biết là Kim Chi cũng ước ao một ngày kia
được gặp tôi để nói chuyện.
Một hôm, tôi viết thư cho Kim Chi rằng tôi sắp phải ly biệt trong vài
tháng để về quê. Tôi nói thế là để xem ý Kim Chi. Thì ra cô viết trả lời tôi
bốn trang giấy đặc rất cảm tình, bảo tôi nên tìm cớ mà ở lại, kẻo đi muôn
dặm một mình xa xôi, mà người ở cũng lệ rơi thấm đá.
Thế thì Kim Chi thực bụng yêu tôi. Tôi bèn hỏi Kim Chi có dịp gặp
nhau không? Còn nhớ trong thư này, tôi gửi kèm cho Kim Chi một giọt
nước mắt. Hẳn các ngài cho tôi là nhu nhược dở hơi. Thưa các ngài lầm rồi!
Cái giọt lệ đó, là tôi vẩy một giọt nước chè tàu vào giấy cho nhòe chữ để tỏ
ra bụng nhớ. Chứ nào có biệt ly đâu mà nhớ, mà dù có biệt ly thực đi nữa,
thì chửa chắc đã nhớ, huống chi là nước mắt!