HỆ THỐNG TỔ CHỨC PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY (TỘC NGƯỜI KINH) VIỆT NAM (1938 – 1963)
67
tu nữ Diệu Đáng lập “hội chúng tu nữ” Phật giáo truyền thống Nam
tông tại Bửu Quang Tự, Thủ Đức. Từ khi đó, các chùa Bửu Long
(Quận 9), chùa Giác Quang (Quận 8), chùa Tam Bảo (Đà Nẵng)...
lập hội chúng tu nữ tạo điều kiện cho tứ chúng đồng tu.
“Năm 1954, Tu nữ Diệu Đáng được tháp tùng phái đoàn Phật
giáo Nguyên thủy Việt Nam đi dự Hội kết tập Tam Tạng lần thứ 6
tại Rangoon, Miến Điện. Năm 1956, Tu nữ Diệu Đáng chính thức đi
du học Phật khoa tại Sagaing, Miến Điện. Tại đây, sau 6 năm theo
học bà đã tốt nghiệp bằng Lower Grade Examination in Buddhism ưu
hạng, và tiếp tục học thêm 5 năm để lấy bằng Middle và Higher Grade
Examination in Buddhism, một bằng cấp Pāḷi Abhidhamma rất khó
học… Ở Việt Nam, Ni trưởng Diệu Đáng được xem là vị tổ khai sáng
dòng phái Tu nữ Nam tông vì bà là người đầu tiên vừa có đạo hạnh vừa
có học thức uyên bác”
31
.
Cùng thời Ni trưởng Diệu Đáng còn có nhiều người xuất gia
như Tu nữ Diệu Ngọc sinh năm 1913; Diệu Đào sinh năm 1939;
Diệu Thành sinh năm 1938, xuất gia 1958 tại Bửu Quang Tự; Cô Tư
Bông sinh năm 1937, thị giả Ni trưởng Diệu Đáng từ Camphuchia.
Cô Diệu Hóa xuất gia năm 1960 tại chùa Tam Bảo, cô Diệu Mai …
KẾT LUẬN
Như vậy, chúng ta đã trình bày qua quá trình tạo lập, tồn tại và
lớn mạnh của Hệ thống Tổ chức Phật giáo Nguyên thủy (Tộc người
Kinh) Việt Nam (1938-1963), qua đó, cho chúng ta thấy ngoài sự
du nhập từ năm 1938 đến năm 1963 “nhập thế” đấu tranh, Phật
giáo Nguyên thủy Việt Nam đã từng bước phát triển, lớn mạnh đạt
được những thành tựu đáng kể. Đặc biệt là hình thành được tổ chức
một cách có hệ thống của riêng mình góp phần không nhỏ cho xiển
dương giáo pháp Thích Ca đến số đông quần chúng nhân dân, mở
rông con đường đưa đến an lạc giải thoát cho họ.
Bên cạnh đó, Hệ thống tổ chức này đã cùng Tổng hội Phật giáo
31. http://www.trungtamhotong.org/index.php?module=news&function=detail&id=855#, truy
cập ngày 27/11/2020.