Mexico-City gợi một bầu khí ấm cúng; trái với Amsterdam (sa
mù, ướt át).
Con người Cro-Magnon: con người tiền sử.
Tháp Babel: sự tích rút trong Thánh kinh Thiên chúa. Lũ con của
kỳ lão Noe định xây một cái tháp chọc trời để leo lên trời. Thượng đế
liền hủy hoại dự định ngỗ ngược ấy bằng cách hiến tiếng nói của thợ
xây tháp thành những tiếng nói khác nhau, không ai hiểu ai nữa. Babel
(tiếng-A rập Bab-el: Thiên môn).
Loài linh trưởng: loài có vú gồm có loài khỉ sắp thành người, và
loài người chưa thoát khỏi hẳn lối sống của khỉ. Nguyên văn:Primates.
Để ý: tên chủ quán được chỉ định bằng mấy danh từ sau đây: gorille
(người ngợm), primate (linh trưởng).
Nguyên văn : (...) je ne pouvais rencontrer un homme d’ esprit -
sans qu’aussitôt j’en fisse ma société (...) Mạng đề sau được phát biểu
với thì imparfait, du subjonctif, vốn là một thì ít dùng trong đàm thoại
thông thường (thay thế bằng thì hiện tại thể subjonctif, dầu mạng đề
chánh được phát biểu với thì quá khứ).
Loại cá nước ngọt này là piranha (hay piraya), sản sanh ở sông
ngòi miền Nam châu Mỹ (Mỹ La tinh). Bản văn trên có phần cường
điệu nên đã miêu tả loại cá hình vóc tí teo, nhưng thật ra,piranha bề
dài từ 30 tới 50 phân. Rất thính hơi máu.
Jean-Baptiste Clamence, danh tánh người kể chuyện nhắc chúng
ta nhớ tới sự tích thánh Joan Baptiste (trong đạo Thiên chúa), điển
hình cho tiếng nói gióng lên trong sa mạc (La tinh cổ viết là: vox
clamantis in deserto). Hơn nữa, từ Clamence rất có thể được Albert
Camus đúc kết bằng hai chữ clamantis (gióng lên) và clémence (khoan
hồng).
Nguyên văn: saducéen.
Như chính Albert Camus hồi còn theo học trung và đại học ở
Alger khoảng 1930-1938.