tế, nối Sài Gòn tới Hồng Kông, Tokyo, Paris, Thượng Hải, Nouméa,
Calcutta... Tần suất máy bay lên xuống đã có thể so sánh với sân bay Paris
bấy giờ.
Qua tư liệu báo chí và lời kể của người trong cuộc, chúng tôi cung cấp
cho bạn đọc một số thông tin, số liệu để biết thêm về tổ chức của ngành
hàng không dân dụng miền Nam cách nay trên dưới nửa thế kỷ.
Tính đến năm 1964, nhà ga hàng không Tân Sơn Nhứt đã có 3 lần được
nới rộng. Lần thứ nhất vào năm 1956–1957, từ tổng diện tích 1.790 mét
vuông được chỉnh trang, mở rộng lên 2.470 mét vuông. Lần thứ hai trong
năm 1960–1961, nhà ga được sửa chữa và nới rộng thành 2.822 mét vuông.
Lần thứ ba, trong những năm 1963–1964, nhà ga đã có diện tích lên tới
6.000 mét vuông, tức là gấp hai lần diện tích cũ và khánh thành tháng 10
năm 1964.
Cần nhắc lại là cho đến thời điểm đó, dù quân đội Mỹ chưa đổ vào miền
Nam, và chiến tranh chưa lan rộng, nhưng lưu lượng vận chuyển ở đây đã
rất cao. Năm 1959 là 30.000 chuyến và đến năm 1963 đã lên đến 122.374
chuyến, tức là tăng hơn gấp ba lần. Trung bình cứ hai phút rưỡi có một
chuyến cất cánh hay đáp xuống. Phi cảng Tân Sơn Nhứt đã được xếp vào
loại phi cảng có sức chuyển vận vào bậc nhất trên thế giới. Số hành khách
theo đó cũng cao dần. Năm 1957, số hành khách quốc nội là 39.300 người,
đến năm 1963 đã tăng lên 173.769. Hành khách quốc tế từ 65.000 người
năm 1959 đã tăng lên 119.915 người vào năm 1963. Tổng số hành khách đi,
đến và transit tăng ở hai mốc thời gian trên từ 116.100 lên 294.400 người.
Đến năm 1964 là 360.000 người. Đó là lý do nhà ga liên tục được mở rộng.