bắt con tin, bọn cướp bèn giết con tin. Thế thì cái việc hợp sức đánh bọn
cướp, là phép từ xưa vậy. Từ đời Thuận đế, An đế đã bỏ phép ấy, chính
giáo trì trệ hủ bại, bọn bắt con tin chẳng kiêng kỵ gì bậc vương công, mà
Hữu ti cũng chẳng ai tuân theo phép nước, Hạo mới khôi phục lại việc
chém bọn ấy, cho nên Nguỵ Vũ mới khen ngợi.]
Thái tổ từ Từ Châu về, Đôn đi theo đánh Lã Bố, bị lạc tên bắn trúng, bị
thương ở mắt trái.
[Nguỵ lược chép: Bấy giờ Hạ Hầu Uyên và Uyên và Đôn đều làm tướng
quân, trong quân gọi Đôn là manh Hạ Hầu
. Đôn ghét bọn ấy, cứ soi
gương là tức giận, lập tức đập gương xuống đất.]
Đôn được lĩnh chức Thái thú Trần Lưu, Tế Âm, gia thêm chức Kiến vũ
tướng quân, phong tước Cao An hương hầu. Bấy giờ trời đại hạn, nạn
hoàng trùng
nổi lên, Đôn liền cho chặn sông Thái Thọ làm thành hồ chứa,
tự thân đi vác đất, làm gương cho tướng sĩ, khuyến khích trồng lúa, dân
được nhờ cái lợi ấy. Sau Đôn được chuyển sang giữ chức Hà Nam doãn.
Thái tổ bình Hà Bắc, Đôn làm Đại tướng quân
dàn quân ở phía sau. Phá
xong huyện Nghiệp, Đôn được thăng làm Phục Ba tướng quân, cai quản Hà
Nam như trước, cho được tuỳ cơ ứng biến xử lý công việc, không phải câu
nệ khuôn phép.
Năm Kiến An thứ mười hai, Thái tổ xem xét công lao trước sau của Đôn,
tăng thêm thực ấp cho Đôn một ngàn tám trăm hộ, cộng cả trước đấy là hai
nghìn năm trăm hộ. Năm thứ hai mươi mốt, lúc theo đi đánh Tôn Quyền ở
Hợp Phì, Thái tổ sai Đôn đốc xuất hai mươi sáu đội quân, đóng ở Cư Sào.
Đôn được Thái tổ tặng cho một đội kỹ nhạc ca xướng, có lệnh rằng: “Nguỵ
Giáng vì cái công hoà với rợ Nhung, mà còn được nhận một đội nhạc Kim
Thạch
, huống chi là là tướng quân của ta!”. Năm thứ hai mươi bốn, Thái
tổ đóng quân ở Ma Pha
, triệu Đôn đến cho ngồi cùng xe, tỏ ra đặc biệt
coi trọng, được ra vào tận chỗ Thái tổ nằm, chư tướng chẳng có ai sánh
được. Đôn được bái làm Tiền tướng quân, đốc trách chư quân từ Thọ Xuân
trở về, cho dời đến đóng binh ở Triệu Lăng.