- Màu đỏ tượng trưng việc đao binh, khô hạn.
- Màu vàng tượng trưng việc vui mừng, việc sửa sang đất nước.
- Màu trắng tượng trưng việc đao binh, hình phạt.
- Màu đen tượng trưng bệnh tật, bệnh dịch, chết chóc, hỏa tai.
Khi sao băng có ánh sáng giống như tấm vải, nếu là màu xanh thì có sứ các
nước tới viếng, nếu là màu đỏ thì có việc đao binh, nếu là màu đen thì có việc
chết chóc.
Nếu sao băng rất lớn, ánh sáng chiếu xuống đất, màu xanh và mào đỏ túa ra
bốn bên thì ngũ cốc mất mùa.
Sao băng phạm vào mặt trăng hay triền mặt trăng mà ánh sáng đỏ hướng về
phía mặt trăng thì thiên hạ không yên ổn.
Khi gặp lưu tinh và bôn tinh, nếu dấy binh sẽ thắng trận.
28.- PHÉP BÍ MẬT XEM SAO YÊU QUÁI :
1) Sao Thiên-Ngô : Cũng có tên là Giác-Tinh, vốn thuộc về sao Tuệ-tinh
(sao chổi) nhọn dài bốn thước. Nếu mọc ở hướng đông-bắc, thì chủ về việc
tranh đoạt. Nếu sao tuệ (chổi) mọc ở hướng đông thì có tên là Thiên-Cách
thì nước ấy không thể cử sự, nếu dùng binh thì phải mất thành. Sao Thiên-
Ngô dài hơn bốn thước thì chủ về việc yêu quái nổi lên khuấy phá.
2) Sao Xi-Vưu-Kỳ (giống cờ giặc Xi-Vưu đời vua Huỳnh Đế). Giống loại
sao Tuệ (chổi) nhưng có đuôi cong như hình lá cờ. Hoặc hiện ra một mình
giống như một đám mây đỏ, sắc của nó trên đỏ dưới trắng, sao ấy hiện ra ở
hướng nào thì ở hướng ấy có binh dấy loạn. Sao Xi-Vưu-Kỳ mọc ra, chủ về
việc đánh dẹp bốn phương. Lại có nói sao Xi-Vưu-Kỳ thuộc loại sao Oanh-
Cảm, nhờ có khí đỏ bồi đắp mà trở nên to lớn, sắc của nó chiếu ánh sáng
xuống đất, tên của nó là cờ Xi-Vưu, chủ về việc binh dữ dấy loạn, rợ man
(nam) và rợ di (đông) xâm phạm biên giới.
3) Sao Nguyệt-Hoàng : Hình nó lớn và có sắc đỏ, ở cách mặt đất chừng
ba trượng giống như bó đuốc, chủ về việc bên trong có giặc giã, tai nạn,
nơi nào thấy sao ấy thì có dấy binh, trong và ngoài đều gặp nạn đao binh.
4) Sao Chiếu-Minh : Hình lớn mà không có sừng nhọn, khi thì lên cao
khi thì xuống thấp, nước nào thấy sao ấy hiện ra thì chịu nạn đao binh.
Sao Chiếu-Minh có hình dài 3 thước, lại có thêm 3 sao ở trên, đó là loại
sao Oanh-Cảm.