Gã không thể xác định lúc ấy Đồng có say thật không, bởi lúc đẩy tín vật
quý giá đó tới trước mặt gã, đôi mắt yếu ớt kia chợt hiện lên thần sắc kiên
định lạnh lung: đôi mắt tím sẫm, nguy hiểm mà sâu không thấy đáy.
Giáo vương trẻ tuổi giơ một tay lên: “Ngươi có đồng ý không?”
Ngày hôm sau tỉnh lại, gã đã nằm trong phòng ấm áp.
Hoắc Triển Bạch mở mắt trong ánh mặt trời chói chang, chỉ thấy đầu đau
như búa bổ. Bên tai phảng phất có tiếng nhạc, u nhã mà thần bí, mang theo
một vẻ u buồn không thể diễn tả bằng lời. Gã chống tay ngồi dậy, dưới gốc
mai ngoài cửa sổ, nam tử có mái tóc xanh lam kia buông cây khất lật
xuống, quay đầu lại mỉm cười: “Hoắc thất công tử tỉnh rồi?”
Hoắc Triển Bạch khẽ chau mày, đưa mắt nhìn quanh quất: “Đồng đâu?”
“Đi từ lúc trời chưa sang.” Nhã Di mỉm cười: “Đại khái là sợ người của
Đỉnh Kiếm các trông thấy sẽ phiền phức cho cả hai bên.”
Hoắc Triển Bạch thở hắt ra một tiếng, dựa người ra sau, nhắm mắt lại, cẩn
thận nhớ lại trận rượu thỏa thuê đêm qua – nhưng lưng gã chợt đè lên vật gì
đó vừa cứng vừa lạnh buốt. Gã vòng tay cầm lên xem thử, không ngờ lại là
một miếng lệnh bài đúc bằng huyền thiết, bên trên khắc hình thánh hỏa
cháy hừng hực.
Thánh Hỏa lệnh? Khoảnh khắc đó, gã chợt thấy đầu óc tỉnh táo hẳn ra.
Đoạn đối thoại đêm trước, bỗng nhiên hiện lên rõ ràng trong óc.
Nhã Di mỉm cười: “Đồng mang đi Mặc Hồn kiếm của ngài làm tín vật, hắn
nói, hắn sẽ tuân thủ ước định của hai người.”
“Gì hả? Mặc Hồn kiếm?!” Gã giật mình sực tỉnh, đưa tay sờ thử, quả nhiên
thanh bội kiếm đã không còn bên mình. Hoắc Triển Bạch thoáng biến sắc,
lắc đầu thật mạnh, khổ sở nhớ lại xem mình và Đồng lúc vỗ tay lập thệ đã
nói những gì.
“Những năm còn sống, Trung Nguyên và Tây Vực sẽ không khai chiến.”
Nhã Di nghiêm giọng nhắc lại từng chữ một.
“À… phải rồi, ta nhớ ra rồi.” Hoắc Triển Bạch cuối cùng gật đầu, sâu trong
đáy mắt lóe lên một tia lạnh lẽo.
“Không phải ngài định nuốt lời chứ?” Nhã Di chau mày.
“Nuốt lời?” Hoắc Triển Bạch cười khổ: “Ngươi cũng xuất than từ Tu La