tạc trong lòng. Đáng tiếc quy củ trong nghề, lão hủ không thể nói cho công
tử bất cứ điều gì, thậm chí đến danh hiệu, tên tuổi cũng không thể tiết lộ,
mong công tử lượng thứ.”
“Lão không cần nói gì,” Vân Tương bèn nói: “ta vốn dĩ cũng không
muốn biết gì từ lão, chỉ là thương thế của lão chưa lành, liệu có thể đợi khỏe
hẳn rồi hãy đi?” Nếu người nhà của lão già bị bắt làm con tin ở Ảnh Sát
Đường, gã cũng không muốn lão già phá bỏ quy củ mà mất người thân.
“Đa tạ hảo ý của công tử, nhưng ta bắt buộc phải đi.” Lão già trầm
giọng đáp. Vân Tương biết rằng lão cần phải trở về phục mệnh nên cũng
không níu giữ thêm. Tiễn lão già đi chưa được bao lâu, gác cửa lại vội vã
mang một bức thiệp mời tới, bẩm báo: “Vừa rồi có người đưa bức thiệp này
đến rồi bỏ đi, cũng không để lại lời nào.”
Vân Tương nhận ra đây là thiệp hẹn của Nam Cung Hào liền mở ra
xem, bên trong chỉ có ngày tháng và mấy câu vắn tắt người ngoài xem
không hiểu. Thấy mấy câu ngắn ngủi ấy, gã biết cơ hội đã xuất hiện và đến
lúc gã phải hành động.
Một tháng sau khi trở về nhà, Nam Cung Phóng chìm đắm trong niềm vui
tột độ và hạnh phúc lớn lao. Y không ngờ sau khi mình thụ thương, ông trời
vẫn tặng cho y một đứa con, tiểu thiếp mang thai mười tháng của y đã sinh
hạ một đứa con trai. Nam Cung Phóng trước giờ đều không tin vào quỷ thần,
vậy mà lúc này cũng phải thầm cảm tạ trời xanh. Có đứa con này, kẻ khác
không thể nói y tuyệt hậu; những trưởng bối trong gia tộc cũng không thể vì
cớ này, buông lời gièm pha ép phụ thân thay người thừa kế.
Trong ba huynh đệ Nam Cung, nhị công tử Nam Cung Giác si mê kiếm
đạo, hoàn toàn không màng thế sự, võ công tuy cao nhưng lại hơi ngốc, vì
vậy người thừa kế chỉ có thể lựa chọn giữa Nam Cung Hào và Nam Cung
Phóng. Từ sau khi xảy ra chuyện ngoài ý muốn kia, vị trí người thừa kế của
Nam Cung Phóng liền gặp phải nguy cơ rình rập, hiện giờ đứa con trai ra
đời đã giúp y giữ vững được địa vị, lại tăng thêm một con cờ quan trọng.