Bạn có thể ngạc nhiên khi thấy tôi phản đối. Thật khó để phản đối ý kiến
cho rằng nhu cầu về sự ổn định là một thiếu sót về trí tuệ. Thật khó để phản
đối rằng chúng ta có thể bị chệch hướng bởi một nhà tiên tri kiêu ngạo nào
đó. Tôi xin được khác với bậc vĩ nhân đó ở chỗ là không tin vào các tài liệu
lưu trữ về việc “triết học” có thể đưa ra lời khuyên giúp chúng ta giải quyết
bài toán đó, và cũng không tin rằng đức tính tốt là thứ có thể chỉ bảo một
cách dễ dàng, và đồng thời không ép buộc mọi người gắng sức để tránh
đưa ra một phán đoán. Vì sao? Bởi chúng ta phải đối xử với con người như
những con người. Chúng ta không dạy mọi người che giấu phán đoán; các
phán đoán được bổ sung theo cách chúng ta xem xét các chủ thể. Tôi không
nhìn thấy một “cái cây”, mà chỉ nhìn thấy một cái cây đẹp hoặc một cái cây
xấu. Điều này sẽ không xảy ra nếu chúng ta không nỗ lực loại bỏ những giá
trị nhỏ nhặt mà mình gán cho các vấn đề. Tương tự, một người không thể
nghĩ về một tình huống mà không có một xu hướng thành kiến nhất định.
Điều gì đó trong bản chất con người của chúng ta muốn chúng ta phải tin;
thế thì sao nào?
Các triết gia từ thời Aristotle đã dạy rằng chúng ta là những động vật duy
lý sâu sắc, và rằng chúng ta có thể học hỏi bằng tranh luận. Phải mất một
thời gian mới phát hiện ra rằng đúng là chúng ta suy nghĩ có hiệu quả,
nhưng lại có xu hướng liên tưởng về quá khứ để tự tạo cho mình ảo tưởng
về hiểu biết, và tạo ra một lớp phủ cho các hành động quá khứ của mình.
Ngay sau lúc chúng ta quên đi quan điểm này, thì thời kỳ “Khai sáng” đã
xuất hiện để lại gieo nó vào đầu chúng ta.
Tôi thà hạ nhân cách con người chúng ta xuống mức dĩ nhiên là cao hơn
các động vật khác mà ta đã biết, nhưng không thể ngang bằng với vận động
viên Olympic lý tưởng - người có thể tiếp thu các nội dung triết học và
hành động đúng với nó. Quả thực, nếu triết học có hiệu quả đến thế, thì khu
vực tự phục vụ của hiệu sách địa phương sẽ là nơi có thể an ủi được những
linh hồn đau khổ - nhưng không phải như vậy. Trong những tình huống
căng thẳng, chúng ta không còn nhớ đến suy luận triết học nữa.
Tôi sẽ kết thúc phần về dự đoán này với hai bài học sau, một bài học rất
ngắn (dành cho những vấn đề nhỏ) và một bài học khá dài (dành cho những