gồm sáu Pháp Phổ như Thái Cực Thường Chuyển, Âm Dương Thường
Chuyền, Pháp Luân Thường Chuyển, Pháp Luân Chiếu Minh, Tụ Đỉnh
Tam Hoa và Hạnh Ngộ Đạo Pháp. Sau đó còn phải được khai mở 7 mạch
đạo (Yoga gọi là Luân Xa = Chakra) để đả thông hai mạch Nhâm Đốc thì
mới tiếp thu và phát huy được năng lượng siêu phàm của vũ trụ để thành
huyền năng trị bịnh giúp đời.
Trong tập tài liệu Thái Thượng Huyền Công được viết bởi Thầy Trần
Hùng, bảy mạch đạo đó gồm:
-Mạch đạo số 1:ở vị trí giữa hậu môn và đốt xương cuối cùng
-Mạch đạo số 2:ở vị trí thắt lưng
-Mạch đạo số 3:ở vị trí giữa lưng
-Mạch đọa số 4:ở vị trí ngang vai
-Mạch đạo số 5:ở vị trí gáy, chỗ nối tiếp giữa cổ và đầu
-Mạch đạo số 6:ở vị trí hai lông mày giao nhau
-Mạch đạo số 7:ở vị trí giữa đỉnh đầu
Khi bảy mạch đạo được khai thông thì người hành giả có khả năng hấp thụ
trực tiếp huyền năng của vũ trụ (the Energy of the Universe) và một nguồn
ánh sáng chân thiện mỹ được khai phóng từ trung tâm mạch đạo số 7.
Để dễ hiểu hơn, chúng tôi xin dựa trên căn bản Y Đạo Đông Phương để
trình bày một cách tổng quát là trong con người mỗi chúng ta đều có hai
phần Âm Dương kết hợp hài hòa: phần Dương với cực Dương trụ tại sọ não
(tức huyệt Bách Hội) và phần Âm với cực Âm trụ tại phần giữa hậu môn
đến đốt cuối cùng của cột sống (huyệt Hội Âm và Trường Cường). Có tất
cả là 7 mạch đạo (7 luân xa) chính như đã kể trên. Khi khai mở được 7
huyệt đạo này là đả thông được khí (Yoga gọi là Prana) trong cơ thể. Khí
luân lưu, đi từ cực Aâm qua đường tủy sống để gặp cực Dương, giúp con
người nhận biết được chân bản thân để tự cải thiện và đi đến hoàn mỹ. Nên
biết rằng sự khai mở 7 luân xa trong TNKC có hiệu năng khác hẳn với sự
khai mở huyệt đạo trong võ thuật, vì TNKC chỉ áp dụng để trị bệnh cho
đời, cho nhân quần xã hội. Còn nếu nói về sự vận khí từ Tiểu Chu Thiên
đến Đại Chu Thiên trong cơ thể, thì đó là phạm vi của việc tu luyện Khí
Công, không phải phạm vi của TNKC vì TNKC có tính cách đạo lý và