Là người học Phật, trước phải thấy tánh. Thấy tánh, không phải có tánh bị thấy.
Nói thấy, là thấy chỗ không thể thấy mà thấy vậy. Cho nên nói thấy, thấy không phải
thấy, thì Chân tánh hiện. Tánh thấy là vô sanh, sanh thấy thì chẳng phải có, chẳng có cái
tánh thật, mà thấy thật không dời đổi. Thế nên gọi là chân thật thấy tánh.
Sau khi thấy tánh, phải gìn giữ giới cho thanh tịnh. Thế nào là giới thanh tịnh?
Nghĩa là trong mười hai giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không loạn. Vì tâm không
loạn động nên cảnh đến vẫn an nhàn. Mắt không vì cái sở duyên của thức mà chạy ra,
thức không vì cái sở duyên của cảnh mà chun vào. Ra, vào không giao thiệp nên gọi là
ngăn chận. Tuy nói ngăn chận mà không phải ngăn chận. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như
thế. Đó gọi là giới Đại thừa, là giới vô thượng cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới
nầy, dù Tiểu tăng cho đến bậc Đại tăng đều phải gìn giữ.
Nhân giữ giới vững chắc không động, kế đó mới tập Thiền. Cái yếu chỉ của Thiền
định là thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét: Thân này từ đâu mà đến?
Tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân? Thân tâm đều không thì
pháp từ đâu mà có? Pháp không thật có, vì không có cái có, cái có có đó từ đâu mà có?
Cái có có đó đã không thì không có pháp có. Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp
nương vào đâu? Không có chỗ dựa nương thì pháp không phải mỗi pháp. Pháp này không
thật cũng chẳng phải không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền.
Người tu tập Thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ
dụng, gọi là Thiền thượng thừa. Ngoài tham thoại đầu không cho gián đoạn, miên mật
liên tục không có kẽ hở, cũng không điên đảo, không trạo cử cũng không hôn trầm. Phải
trong trẻo như viên ngọc lăn trên mâm, phải sáng suốt như gương trên đài. Đến chỗ đất
này, đi cũng được, đứng cũng được, ngồi cũng được, nằm cũng được, nói hay nín đều
cũng được, có chỗ nào lại không được?
Đã được thế rồi, về sau mới nêu lên những câu ngộ: Tam quan, tam huyền, tam
yếu, ngũ vị, tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng v.v... các cơ quan của Thiền tổ. Bảy
phen soi tám phen dùi, nhồi đi ép lại, thấu triệt chân nguyên, chừng đó, mới hay mượn
pháp tòa của Phật Đăng Vương, nắm sừng thỏ, nhổ lông rùa, tay hoa một phen chuyển,
bốn chúng thảy mịt mờ. Phát sanh vô thượng Diệu Huệ, chiếu soi không cùng. Đối với
Tứ vô lượng tâm, Tứ niệm xứ, Tứ vô úy, Bát chánh đạo, Thập lực của Phật, Mười tám
pháp bất cọng, cho đến tám muôn bốn ngàn môn đà-la-ni, trần trần sát sát, tất cả môn
tam-muội đều từ nơi mình lưu xuất mỗi mỗi đều đầy đủ.
Tuệ đã đầy đủ, ban cho chúng sanh, nguyện lực không cùng tận, tự giác giác tha,
tứ sanh và cửu loại, tất cả đều được thấm nhuần. Nếu tuệ mà không định gọi là càn tuệ
(tuệ khô), định mà không tuệ gọi là si thiền.
Thiền có chia làm năm:
1) Phàm phu thiền
2) Ngoại đạo thiền
3) Tiểu thừa thiền
4) Đại thừa thiền
5) Thượng thừa thiền.