Sư cho rằng đất này là ác địa, khó giáo hóa được, bèn trở về quê cũ là làng Bình
An thượng, phủ Thăng Hoa, xứ Quảng Nam. Một đêm có người Mán lại gõ cửa Sư và
thiết tha mời Sư ra đảo Tim Bút La lại. Hỏi nguyên do, người Mán thưa: Sư cụ về được
bốn ngày, thì cả ba đền ở đảo Tim Bút La, đền Cao Các đại vương, đền Phục Ba đại
vương và đền Bô Bô đại vương đều phục đồng lên nói rằng: “Hôm nọ bọn ma tinh tác
quái mấy lần để làm não hại Pháp sư, chúng ta ngồi yên xem thử coi ai thắng ai bại.
Chúng ta thấy Pháp sư biến hình biến tướng chẳng biết ở đâu, khiến chúng ma tinh phải
lui hết. Chúng ta thấy Pháp sư thật là đạo hạnh kiêm toàn, vì vậy nên báo cho dân làng
biết đi thỉnh Sư về trụ trì ở đây.” Sư lại một phen cùng đệ tử xuống thuyền trở ra đảo Tim
Bút La. Từ đây Sư ở chuyên tu hơn tám năm mà không có gì chướng ngại. Nhân dân rất
ngưỡng mộ.
Thuần quận công trấn thủ Quảng Nam có bà vợ đau đã lâu mà không trị lành,
nghe danh tiếng của Sư cho người đến rước. Sư lập đàn tụng kinh bảy ngày đêm thì bệnh
bà lành. Cả nhà đều kính phục, đồng xin qui y với Sư. Xong việc, Sư trở lại đảo Tim Bút
La.
Hơn nửa năm sau, quan Tổng thái giám là Hoa Lễ Hầu ở Quảng Nam mắc bệnh
lao đã ba năm, nghe danh Sư cho thuyền ra đón về trị hộ. Sư về lập đàn Đại sám hối trong
vòng mười ngày bệnh được khỏi. Hoa Lễ Hầu về Thuận Hóa đem việc đó kể lại cho
Dũng quốc công Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền 1648-1687) nghe. Quốc công ngưỡng mộ
sai sứ ra thỉnh Sư về doanh phủ. Quốc công ra cửa đón Sư vào, thăm hỏi và luận bàn đạo
lý rồi lập Thiền tịnh viện ở núi Qui Kính mời Sư trụ trì.
Sư ở núi Qui Kính hoằng hóa, bà Quốc Thái phu nhân cùng ba công tử là Phúc
Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều xin qui y, quan dân quân lính đều kính mộ, xin qui y có
đến một ngàn ba trăm người (1300).
Bấy giờ có quan Thị nội giám là Gia quận công người làng Thụy Bái huyện Gia
Định ngoài Bắc, tòng quân vào đánh Thuận Hóa bị Phúc Tần bắt được, nhưng tha cho để
ra vào dạy nội cung. Gia quận công thường tới lui nghe Sư thuyết pháp. Có kẻ ganh ghét
tâu với chúa Nguyễn là hai người âm mưu định trốn về Bắc. Chúa Nguyễn sanh nghi, liền
bắt Sư và Gia quận công đem tra tấn, nhưng rốt cuộc không có bằng chứng gì. Chúa
Nguyễn ra lệnh cho Sư về Quảng Nam.
Bởi lý do ấy, Sư quyết chí trở về Bắc thật sự. Sư ngầm dự bị một chiếc thuyền
cùng năm mươi đồ đệ vượt biển. Về đến đồn Trấn Lao đến yết kiến quan Đốc sư là Yên
quận công Trịnh Na. Trịnh Na dâng sớ về triều tâu cho vua Lê hay. Bấy giờ là tháng ba
năm Nhâm Tuất, năm thứ ba niên hiệu Chính Hòa (1682). Chúa Trịnh (Trịnh Tạc) sai
Đường quận công đem thuyền đón Sư về kinh. Sư đến kinh ở tạm lại công quán, chúa
Trịnh sai Nội giám là Nhương quận công và Bồi tụng là Lê Hy đến hỏi tra lý lịch, lại đòi
người làng Áng Độ đến nhận thật.
Biết đúng lẽ thật rồi, chúa Trịnh cho mời Sư vào triều thăm hỏi và phong cho
chức Vụ sử, thưởng ba trăm quan tiền, mỗi năm cấp hai mươi bốn lâu thóc, ba mươi sáu
quan tiền, một tấm vải trắng. Đồ đệ của Sư mỗi người một năm cấp mười hai lâu thóc,
mười hai quan tiền. Chúa sai Sư vẽ địa đồ của hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam, Sư vâng
lệnh vẽ rất rõ ràng dâng lên. Chúa khen ngợi thưởng hai ngàn quan tiền.