2.
Tầm ngưu tu phỏng tích
Học đạo quí vô tâm
Tích tại ngưu hoàn tại
Vô tâm dị đạo tầm.
Dịch:
Tìm trâu phải noi dấu
Học đạo quí vô tâm
Dấu còn trâu nào mất
Vô tâm đạo dễ tầm.
3.
Sanh tùng hà xứ lai
Tử tùng hà xứ khứ
Tri đắc lai khứ xứ
Phương danh học đạo nhân.
Dịch:
Sanh từ chỗ nào đến?
Chết sẽ đi nơi nào?
Biết được chỗ đi đến.
Mới gọi người học đạo.
Khi nhàn hạ Sư thường ngâm hai bài kệ này:
1. Âm:
Thành thị du lai ngụ tự triền
Tùy cơ ứng biến mỗi thời nhiên
Song chiêu nguyệt đáo thiền sàng mật
Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên.
Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền chung cổ diễn thanh huyền
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.
Dịch:
Dạo qua thành thị nghỉ chùa chiền
Tùy cơ ứng biến lẽ đương nhiên
Trăng dòm cửa mở giường kê sát
Gió thổi thông cười khách ngủ yên.
Lầu đài rực rỡ mầu đẹp đẽ
Chuông trống vang rền tiếng diệu huyền
Ba giáo nguyên lai cùng một thể
Xoay vần đâu có lẽ nào thiên.
2. Âm: