người nào khác. Nhưng mê đối với ngộ, ngộ trông vào mê, vọng đối với chân, chân
nương nơi vọng. Nếu ta cầu chân mà bỏ vọng, như người chạy trốn bóng luống nhọc
hình. Nếu ta nhận chân chính nơi vọng, như người vào chỗ mát thì bóng mất. Nếu tâm
không vọng chiếu thì vọng lự tự hết. Từ cái tịch tri mà khởi dụng thì các thiện hạnh phấn
khởi. Thế nên, cái ngộ tịch mà không tịch, cái chân tri dường như vô tri. Lấy tâm nhất trí
không phân chia tịch và tri, hợp với lẽ huyền diệu dung thông nhau. Có và không đều
không chấp không mắc, phải quấy đều quên, năng sở cũng dứt. Cái dứt ấy cũng bặt luôn
thì hoa Bát-nhã liền nở, mỗi tâm đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải tâm Phật;
chốn chốn đều là đạo thì không chỗ nào chẳng phải cõi Phật.
Thế nên, chân với vọng, vật với ngã đều do ở một tâm ta, Phật với chúng sanh
cũng đều chung nhau một tâm ấy. Nếu mê thì người theo sự vật, sự vật thì vô vàn nên
người chẳng giống nhau. Nếu ngộ thì sự vật theo người, người đem một trí mà dung hòa
muôn cảnh. Đến đây thì hết chỗ nói năng bặt đường tư tưởng, còn gì mà nói nhân trước
quả sau? Tâm thể rỗng lặng, còn gì là người này giống, kẻ kia khác? Chỉ còn một tâm
trong sáng, tăng giảm chan hòa. Như tấm gương sáng, tuy không có hoa mà bóng hoa
hiện, gương vẫn vô tâm, tuy thấy ảnh tượng chiếu trong gương, mà ảnh tượng vẫn hằng
không vậy.
Sư cũng thường đọc những bài kệ này dạy chúng:
1. Âm:
Cô viên khiếu lạc thiên nham nguyệt
Dã khách ngâm tàn ngũ dạ đăng
Thử cảnh thử thời thùy hội đắc
Bạch vân thâm xứ tọa thiền tăng.
Dịch:
Vượn lẻ hú rơi trăng ngàn núi
Khách quê ngâm lụn ngọn đèn khuya
Cảnh ấy người đây ai biết được
Thiền tăng ngồi lặng núi sâu kìa.
2. Âm:
Nam đài tĩnh tọa nhất lô hương
Chung nhật ngưng nhiên niệm lự vương
Bất thị tức tâm trừ vọng tưởng
Chỉ duyên vô sự khả tư lương.
Dịch:
Đài nam tĩnh tọa một lò hương
Lặng lẽ suốt ngày niệm lự không
Chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng
Chỉ vì không việc đáng đo lường.
3. Âm:
Khô mộc nham tiền sai lộ đa
Hành nhân đáo thử tận tha đà