quay lại để chạy hóa trị. Ông bảo tôi đang chơi trò 'mạo hiểm' với tính
mạng. Cuối cùng ông đã thuyết phục được tôi quay lại chạy hóa trị, tôi đến
Ann Arbor và bắt đầu điều trị. Mỗi ngày tôi thấy một tệ hơn. Mắt tôi nóng
rực, dạ dày như cháy lên. Chỉ trong vài ngày tôi trở nên quá yếu và khó ra
khỏi giường... 'Cứu chữa' giết tôi nhanh hơn bệnh! Không thể chịu đựng
thêm tí nào nữa, tôi dừng hóa trị, quay trở về với Laetrile thực phẩm bổ
sung và nhanh chóng bắt đầuthấy tốt hơn. Lần này lâu hơn vì tôi phải chiến
đấu với tác động củacả hóa chất cũng như ung thư...
Trong thời gian ngắn tôi lại có thể tập hít đất và thể dục mà không bị mệt.
Bây giờ tôi đã 75 tuổi [20 năm sau ngày họ nói tôi chỉ còn sống vài tháng],
tôi vẫn chơi bóng tường hai lần mỗi tuần.
Trong thư ngày 19 tháng 6 năm 1996 gửi Edward Griffin, tác giả cuốn
World Without Cancer, bà Hazel Sykes cung cấp thêm cái nhìn sâu sắc:
"Sau khi Bill chiến thắng ung thư, một hôm có vị bác sĩ đến gặpông. (Đó
là bác sĩ làm hóa trị ở một bệnh viện có tiếng tăm). Bác sĩ muốn biết làm thế
nào Bill đã chiến thắng được ung thư vì vợ ông đang rất ốm vì ung thư. Bill
nói: "Sao ông không chạy hóa trị cho bà ấy?" Bác sĩ trả lời: "Tôi không bao
giờ chạy hóa trị cho bất cứ ai trong gia đình và bạn bè!" Ông ta không chỉ
là bác sĩ duy nhất đến gặp Bill với cùng câu hỏi đó".
Các bác sĩ "trong cuộc"
Rất nhiều bác sĩ thiên về quan niệm dùng Laetrile để kiểm soát ung thư.
Dưới đây là một số ví dụ.
Vào năm 1994, bác sĩ P. E. Binzel công bố những kết quả điều trị cho
bệnh nhân ung thư của ông bằng Laetrile trong giai đoạn 1974 và 1991. Ông
sử dụng kết hợp truyền và uống Laetrile. Liều truyền bắt đầu từ ba gram đến
tận chín gram. Sau khoảng thời gian vài tháng thì uống Laetrile một gram
lúc đi ngủ thay cho truyền. Bác sĩ Binzel cũng sử dụng các chất dinh dưỡng
bổ sung khác nhau và enzyme tuyến tụy cũng như lượng thấp đạm động vật,
không có đồ ăn tạp trong chế độ của ông cho bệnh nhân ung thư.
Trong nhóm 180 bệnh nhân ung thư giai đoạn đầu (không di căn hay giới
hạn ở một cơ quan hay mô), thì 138 bệnh nhân vẫn sống đến năm 1991 khi