đang thực sự bị nhiễm độc nghiêm trọng. Mặc dù không có triệu chứng lâm
sàng, nhưng những hiệu ứng thần kinh sâu kín có thể chưa hiện rõ.
Đây là vấn đề nan giải đã thấy với nhiễm độc chì từ những năm 1950. Trẻ
em ăn sơn nền chì, chúng đưa đồ vật vào miệng, và lúc đầu chúng sẽ cảm
thấy mệt mỏi. Nếu đưa ngay đến bác sĩ để thử máu cho đứa trẻ thì sẽ cho
thấy rõ mức chì trong máu gia tăng. Cần phải điều trị ngay.
Tuy nhiên, nếu kiểm tra một vài tuần hoặc vài tháng sau đó, xét nghiệm
máu của đứa trẻ sẽ cho thấy không có nhiễm độc chì. Những biểu hiện lâm
sàng trẻ sẽ thể hiện hồi phục từ giai đoạn cấp tính mà không nhận biết được
"ốm bệnh". Cũng đứa trẻ đó, sau một năm hoặc hơn sẽ bắt đầu có các triệu
chứng lâm sàng về gia tăng mức độ chì trong tế bào. Điều này sẽ xuất hiện
tổn thương hệ thần kinh và làm chậm khả năng tiếp thu trong học tập của
trẻ.
Vậy, cách thích hợp để đánh giá độc tố kim loại nặng ngấm sâu là gì? Đầu
tiên, phải có một lịch sử về sự hiện diện của kim loại nặng. Thứ hai, thường
có một số thay đổi về thần kinh liên quan với sự lộ diện của độc tố ngấm sâu
cần được khẳng định trong kiểm tra sức khỏe. Tôi nói "thường thường" bởi
ở Mỹ hầu hết các bác sĩ bỏ qua ngộ độc kim loại nặng cho đến khi nó có
triệu chứng lâm sàng, tức là có biểu hiện rõ ràng. Do đó đối với biểu hiện
cho thấy kim loại nặng đã ngấm sâu, chúng tôi đánh giá mức độ lưu trữ kim
loại nặng trong tế bào bằng cách tiến hành xét nghiệm kiểm tra.
Làm xét nghiệm kiểm tra như thế nào?
Chúng tôi lấy mẫu máu và mẫu nước tiểu của bệnh nhân rồi gửi đi phân
tích trong phòng thí nghiệm tất cả các kim loại nặng, không chỉ chì và thủy
ngân. Cho dù mẫu thử nước tiểu và máu đầu tiên xác nhận các kim loại nặng
có gia tăng hay không, thì bệnh nhân vẫn được bắt đầu tác nhân chelat thích
hợp. Sau khoảng năm đợt chelat, lại lấy máu và nước tiểu gửi đi phân tích.
Mục đích của liệu pháp năm chelat là giúp chiết xuất các kim loại nặng từ
bên trong các tế bào của cơ thể. Khi các kim loại nặng được chelat từ bên
trong các tế bào, bệnh nhân thường bắt đầu cảm thấy mệt mỏi như khi họ
đang trong giai đoạn cấp tính. Dần dần, bệnh nhân sẽ cảm thấy khỏe hơn.