THỦY HỬ - Trang 1326

Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Ý Trời đã định, còn ai dám cãi, từ nay đều xin nhất lực nhất tâm.
Tống Giang sai lấy năm mươi lạng vàng, tạ ơn Hà Diệu Thông. Hà Diệu Thông bèn
bái tạ Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh rồi cùng với bọn đạo tràng xuống núi mà
chia tay trở về.
Bấy giờ Tống Giang bàn với Quân Sư Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh để chỉnh đốn
lại trong sơn trại; Trước Trung Nghĩa Đường khắc một cái biển vàng đề ba chữ
"Trung Nghĩa Đường "rất to. Đoạn kim đình cũng thay một bức biển lớn. Phía trước
đặt ba cửa quan. Phía sau Trung Nghĩa Đường, lập một toà Nhạn Đài. Đỉnh núi đặt
một đại sảnh, phía Đông phía Tây đều có ngăn phòng, chính giữa đặt một bàn thờ
Tiều Cái.
Tống Giang, Ngô Dụng, Lã Phương, Quách Thịnh ở phòng bên Đông; Lư Tuấn
Nghĩa, Công Tôn Thắng, Khổng Minh, Khổng Lượng ở phòng bên Tây.
Lớp núi thứ hai có Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên ở phòng
bên tả; và Đới Tung, Yến Thanh, Trương Thanh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan ở
dẫy bên hữu. Bên tả Trung Nghĩa Đường có Sài Tiến, Lý Ứng, Tưởng Kính, Lăng
Chấn coi giữ việc thu phát tiền lương kho tàng và bên hữu thì có Hoa Vinh, Phàn
Thụy, Hạng Sung và Lý Cổn.
Cửa quan đệ nhất đường bên Nam trước núi, cắt Giải Trân, Giải Bảo coi giữ. Cửa
Quan thứ nhì Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng coi giữ. Cửa quan thứ ba Chu Đồng, Lôi
Hoành coi giữ.
Bên Đông núi một cửa quan, Sử Tiến, Lưu Đường coi giữ. Bên Tây một cửa quan,
Dương Hùng, Thạch Tú coi giữ. Bên bắc một cửa quan Mục Hoằng, Lý Quỳ coi
giữ.
Ngoài sáu cửa quan lại đặt thêm tám trại, bốn trại trên bộ và bốn trại dưới nước.
Trại bộ chính Nam có Tần Minh, Sách Siêu, Âu Bằng, Đặng Phi. Trại Chính Đông
có Quan Thắng, Từ Ninh, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn; Trại chính Tây có Lâm Xung,
Đổng Bình, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc. Trại Chính Bắc có Hô Diên Chước,
Dương Chí, Hàn Thao, Bành Dĩ; Trại thủy bên Đông Nam có Lý Tuấn, Nguyễn
Tiểu Nhị; Trại Tây Nam có Trương Hoành, Trương Thuận; Trại Đông Bắc có
Nguyễn Tiểu Ngũ, Đồng Uy; Trại Tây Bắc có Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Mãnh, còn
các Đầu Lĩnh ai vào việc ấy.
Lại sai Hầu Kiện chế thêm các hiệu cờ khác nhau, trên núi chế một ngọn cờ Hoành
Hạnh, viết bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" rất to. Trước cửa Trung Nghĩa Đường
chế hai lá cờ thêu, một bên có năm chữ "Sơn Đông Hô Bảo Nghĩa"; và một bên
năm chữ "Hà Bắc Ngọc Kỳ Lân". Ngoài đặt các cờ Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng,
Phi Báo, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ và các đồ Hoàng Việt, Bạch
Mao, Thanh Phan, Tạo Cái, Phi Anh hặc đạo để dùng ra trận.
Lại sai chế các thứ cờ Tứ Đầu, Ngũ Phương, Tam Tài, Cửu Diệu, Nhị Thập Bát Tú,
Lục Thập Tứ Quái, Chu Thiên Cửu Cung, Bát Quái và tất cả một trăm hai mươi bốn

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.