Ngũ Tử Tư quay mặt ra dòng sông rộng mênh mang vái dài một vái, để
chào ông lão chài, rồi đi mấy ngày nữa, thì tới biên giới nước Ngô.
Cuộc đấu tranh giữa các chư hầu trung nguyên với kinh Sở, từ sau khi
Tống Hướng Nhung triệu tập chư hầu họp hội nghị bàn chấm dứt binh đao
trở đi, đã hình thành một trạng thái hoà bình nghỉ ngơi. Trong thời gian này,
nước Ngô vươn dậy ở đông nam, không ngừng đấu tranh với nước Sở, thế
là những vùng đấu tranh dần dần từ trái tim của Trung Nguyên di chuyển
đến lưu vực sông Hoài và vùng hạ lưu Trường Giang. Tộc người Ngô gọi là
Kinh Man, tập tục của họ là cắt tóc ngắn và xăm hình, không giống với
những tộc người ở Trung Nguyên búi tóc vạt áo chéo sang phải, hoặc người
tộc Nhung Dịch xoã tóc và vạt áo chéo sang trái.
Việc xây dựng nước Ngô bắt đầu từ khoảng thế kỷ mười ba trước công
nguyên khi Ngô Thái Bá chạy sang Ngô, hồi ấy vào khoảng thời đại Đế tổ
giáp của Ân Thương đời thứ hai mươi hai, khoảng năm 1231 trước công
nguyên.
Nguyên là Thái Vương nhà Chu là Cổ Công Đản Phụ có ba người con
trai, con trưởng là Thái Bá, con thứ là Trọng Ung, con thứ bà là Quý Lịch.
Quý Lịch sinh con là Cơ Xương (tức là Chu Văn Vương) từ bé đã thông
minh và nhiều tài. Cổ Công Đản Phụ khen ngợi sự hiền đức của cháu mình,
cho rằng sau này cháu mình tất sẽ làm vẻ vang cho nhà Chu. Thế là Thái
Bá, Trọng Ung lấy cớ đi Hành Sơn hái thuốc (đến một nơi xa xôi ở Nam
Sơn, chứ không phải Hành Sơn tỉnh Hồ Nam ngày nay) dần đi xuống phía
Nam theo tộc người Kinh Man để tỏ ý nhường ngôi. Về sau Thái Vương
Cổ Công Đản Phụ chết; con là Quý Lịch nối ngôi; Quý Lịch chết, con là Cơ
Xương nối ngôi, gọi là Văn Vương. Quả nhiên Văn Vương đã làm rạng rỡ
cho gia tộc nhà Chu, đến đời con là Vũ Vương thay nhà Thương mà có
được thiên hạ, đúng như lời Cổ Công Đản Phụ. Đại Bá và Trọng Ung đã
theo Kinh Man, cũng cắt tóc xăm mình theo phong tục Man di, người Man
di hâm mộ phong thái nghĩa cử đó cho nên có tới hàng ngàn người đã đi
theo. Thái Bá bèn. tự xưng là Câu Ngô, đóng đô ở Mai Lý.
Từ khi Thái