Phật dạy rằng: "Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nhóm, dung y đẹp đẽ mà
đâu còn hoài". Nhờ chỗ dẫn chứng lời của Phật dạy đó mà Thầy tỏ ngộ, dứt
hết các đều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Há.
Ðến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt Thầy đem bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi
mà đốt. Song khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn tự nhiên
không nóng.
Chủ ngục thấy vậy nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi hối đem củi cho
nhiều và chụm thêm vào mãi mãi, nhưng đến khi xem lại trong chảo dầu thì
thấy Thần Tỳ kheo ngồi kiết già trên hoa sen, xem bộ tự nhiên chẳng hề lay
động chút nào cả. Chủ ngục hoảng kinh, lật đật đến tâu tự sự cho vua A
Dục rõ.
Vua tánh nóng như lửa, khi nghe tin ấy liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái
lạc.
Vua vào đến nơi, thì thấy Thầy Tỳ kheo hiện thân lên hư không, biên đủ 18
phép thần thông, trên mình thì nước tràn lênh láng, phía dưới thì lửa cháy
rần rần, thí như một hòn núi lớn ở giữa không gian vậy.
Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi tự nghĩ: "Mình với Thầy Tỳ
kheo này cũng đồng là loài người, cớ sao Thầy lại đặng phép thần thông tự
tại như thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác!".
Vua nghĩ như thế nên vội vàng quỳ xuống bạch với vị Tỳ kheo ấy rằng:
"Ngửa mong Thánh giả chiếu cố đến tôi, xin hạ xuống nơi đây, tôi nguyện
từ rày về sau bỏ dữ làm lành mà quy với Ngài".
Thầy Tỳ kheo đáp:
- "Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà quy đầu Tam bảo, thì
sẽ đặng phước đức vô cùng và hân hạnh cho dân chúng biết bao".
Thầy Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà trở về tịnh xá.
Khi vua A Dục đã quy y theo Phật rồi, thì trong lòng hân hoan vô cùng,
định sửa soạn trở về cung. Bỗng người chủ ngục đến tâu: "Khi Ðại vương
lập ra cảnh "Nhân gian địa ngục" này, có ra lệnh hễ ai vào đây thì không
cho ra. Tôi đã thọ mạng rồi, nên không dám cãi. Còn Ðại vương là bực
thiên tử cũng phải nhất ngôn mới được".
Nghe chủ ngục nói như thế, vua A Dục mới hỏi: "Cứ theo lời của nhà