Năm đại nghiệp thứ 14, Tùy Thang Vương bị giết, đông đô Lạc Dương rơi
vào tay Dương Đồng và đại thần Vương Thế Xung. Vương Thế Xung lập
Dương Đồng lên làm vua, rồi núp dưới chiêu bài triều nhà Tùy điên cuồng
trấn áp quân khởi nghĩa. Năm Võ Đức thứ 2, Vương Thế Xung đánh bại
quân Ngõa Cương, đoạt được chính quyền và đổi quốc hiệu là Trịnh. Lý
Thế Dân con trai thứ của Lý Uyên là một người thiện chiến và có tài năng
về mặt lãnh đạo.
Khi Lý Thế Dân dẫn quân ra cửa ải, các châu quận ở Hà Nam đều tới
tấp quy hàng, nên đã nhanh chóng bao vây Lạc Dương, rồi ngày đêm công
thành, nhưng vì thành Lạc Dương rất kiên cố, binh lính đã tỏ ra mệt mỏi và
chán nản, Lý Thế Dân khích lệ các tướng sĩ rằng: "Chúng ta đã tới đây thì
phải chung sức chung lòng, các châu ở phía đông hiện đã lần lượt đầu hàng,
chỉ còn có mỗi thành Lạc Dương này mà thôi, nay xem ra chúng cũng
chẳng cố thủ được bao lâu nữa, thắng lợi đang trong tầm tay, chúng ta cớ
sao lại có thể bỏ dở được". Trong khi Vương Thế Xung đang trong cơn
nguy cấp, hơn 10 nghìn quân Hà Bắc do Đậu Kiến Đức lãnh đạo ban đầu
cũng chỉ tọa sơn quan hổ đấu chứ không đến cứu viện, sau thấy quân của
Vương Thế Xung bị đánh bại thảm hại, mới chịu đứng ra dàn xếp. Đậu
Kiến Đức viết thư sang khuyên Lý Thế Dân hãy rút về Đồng Quan để giảng
hòa, Lý Thế Dân không chịu, rồi cùng các tướng bàn cách đối phó với Đậu
Kiến Đức.
Tiết Thu- thuộc hạ của Lý Thế Dân cho rằng, Vương Thế Xung hiện
chỉ thiếu mỗi lương thực mà thôi, một khi họ được tiếp tế thì việc thắng
thua thật khó lường, chi bằng trong khi ta vây khốn thành Lạc Dương, Tần
vương nên thân trinh dẫn tinh binh đánh chiếm Hổ Lao Quan, làm rối loạn
hậu phương của Đậu Kiến Đức thì chúng tất bị thất bại. Lý Thế Dân thuận
theo kế này, liền dẫn kỵ binh tinh nhuệ thẳng tiến về Hổ Lao Quan. Vậy là
chiến dịch Hổ Lao Quan nổi tiếng trong lịch sử chính thức mở màn. Năm
Võ Đức thứ 3, Lý Thế Dân dẫn quân đến Hổ Lao Quan, trước tiên cắt đứt
đường vận lương của quân Hạ, khiến Đậu Kiến Đức đành phải đào hào đắp