Những hành động ngỗ nghịch của Đề-bà-đạt-đa quá lộ liễu và thấp hèn. Dân
chúng trong thành đều lấy làm bất mãn, nhất là khi thấy ông này vẫn còn đắp y
vàng như một thầy tỳ-kheo đệ tử Phật.
Biết được những điều dư luận ấy, Phật triệu tập tất cả các vị đệ tử lớn trong tăng
đoàn để hỏi ý kiến về thái độ đối với những việc Đề-bà-đạt-đa đã làm.
Sau khi lấy ý kiến chung, Phật quyết định công bố việc khai trừ Đề-bà-đạt-đa ra
khỏi giáo hội Tăng-già. Phật truyền cho đại đức Xá-lỵ-phất vào thành Vương-xá
để công bố cho nhân dân đều biết việc Đề-bà-đạt-đa đã bị khai trừ khỏi giáo hội,
và giáo hội hoàn toàn không chịu trách nhiệm về bất cứ hành động nào của Đề-
bà-đạt-đa từ nay về sau.
Khi ấy, Đề-bà-đạt-đa biết việc thay quyền của Phật là chuyện ảo tưởng không
sao làm được, ông liền chuyển hướng nghĩ đến việc chia rẽ Tăng-già.
Ông cấu kết với một số các tỳ-kheo nông cạn khác, kêu gọi thành lập một giáo
đoàn mới do ông cầm đầu.
Để tạo ra động lực thu hút người theo mình, ông đặt ra năm điều giới luật mới,
khắt khe hơn đối với tăng sĩ, và tuyên bố là nhờ vậy mà người tu sẽ mau chứng
quả hơn. Những điều luật của ông là:
1. Vị tăng sĩ phải suốt đời cư trú ở trong rừng hoặc nơi vắng vẻ, không được ở
trong các tu viện hoặc nhà cửa, phòng ốc.
2. Vị tăng sĩ chỉ sống đời khất thực hoàn toàn, không nhận các buổi lễ cúng
dường của tín thí.
3. Vị tăng sĩ suốt đời chỉ được mặc áo vá bằng nhiều mảnh, không được nhận y
phục do tín thí cúng dường.
4. Vị tăng sĩ chỉ được ngủ dưới gốc cây, không được ngủ trong xóm làng, thành
phố hoặc trong nhà cửa, phòng ốc.
5. Vị tăng sĩ chỉ ăn chay hoàn toàn không dùng đến thịt cá trong bất cứ trường
hợp nào.[140]