TỰ HỌC SỬ DỤNG LINUX - Trang 83

74

Làm quen với hệ thống tập tin ext3fs

chủ sở hữu, tên của nhóm sở hữu cũng được ghi vào theo thông tin tên nhóm của
tiến trình tạo tập tin. Có thể thay đổi chủ và nhóm sở hữu trong quá trình làm
việc sau này bằng hai câu lệnh chown và chgrp (chúng ta sẽ đề cập kỹ hơn về
hai lệnh này ngay sau đây).

Bây giờ hãy thực hiện một lần nữa câu lệnh ls -l, nhưng có thêm một tham

số nữa đó là tên của một tập tin cụ thể nào đó. Ví dụ tập tin chương trình của hệ
vỏ bash /bin/bash. Nhân tiện, hãy chú ý khả năng này của câu lệnh ls -l –
hiển thị thông tin về một tập tin cụ thể nào đó chứ không phải tất cả các tập tin
trong thư mục một lúc.

[user]$ ls -l /bin/bash

-rwxr-xr-x 1 root root 501804 2006-04-23 05:46 /bin/bash

Như bạn đọc thấy, trong trường hợp này chủ sở hữu là người dùng root, nhóm

sở hữu – root. Nhưng bây giờ trên dòng này chúng ta sẽ quan tâm hơn đến vùng
đầu tiên, vùng xác định dạng tập tin và quyền truy cập đến nó. Vùng này trong
ví dụ trên là chuỗi các ký tự tạm thời chưa nói lên điều gì “-rwxr-xr-x”. Những
ký tự này có thể tạm chia thành bốn nhóm. Nhóm thứ nhất chỉ gồm một ký tự
xác định dạng tập tin (một trong bốn dạng đã nêu ở phần trên). Nó có thể là một
trong số những ký tự sau:

ˆ (gạch ngang) – tập tin thông thường

ˆ d – thư mục

ˆ b – tập tin thiết bị khối

ˆ c – tập tin thiết bị ký tự

ˆ s – socket

ˆ p – ống có tên (pipe)

ˆ l – liên kết mềm (symbolic link).

Sau ký tự xác định dạng tập tin là ba nhóm, mỗi nhóm gồm ba ký tự xác định

quyền truy cập tương ứng cho chủ sở hữu, nhóm sở hữu tập tin và cho những
người dùng khác. Trong ví dụ của chúng ta quyền truy cập của chủ sở hữu là
rwx

, có nghĩa là chủ sở hữu root có quyền đọc (r), ghi vào tập tin (w) và chạy

tập tin này (x). Thay bất kỳ ký tự nào trong số những ký tự này bằng dấu gạch
ngang có nghĩa là người dùng bị tước mất quyền tương ứng. Cũng trong ví dụ ở
trên chúng ta thấy, tất cả những người dùng khác (kể cả những người dùng của
nhóm root) bị tước mất quyền ghi vào tập tin này, có nghĩa là họ không thể sửa
tập tin và nói chung là không thể thay đổi tập tin bằng cách nào đó.

Quyền truy cập và thông tin về dạng tập tin trên các hệ thống UNIX được

lưu trong mô tả inode ở dạng cấu trúc 2 byte (16 bit). Điều này là tất nhiên vì
máy tính chỉ làm việc dựa trên các bit chứ không phải dựa trên các ký tự r, w,
x

. Bốn bit trong số 16 bit này được dùng cho bản ghi về dạng tập tin. Ba bit tiếp

theo xác định các tính chất đặc biệt của tập tin thực thi (chúng ta sẽ nói đến một
chút ở sau). Và cuối cùng 9 bit cuối cùng xác định quyền truy cập đến tập tin. 9

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.