1 chữ "Địch”, cũng đọc là "trạch", đồng âm với chữ "trạch" là đầm lầy. Bồ
là một loại cỏ mọc ở đầm lầy, gần giống lác ở ta vậy.
Đào lý tử
Hoàng hậu lạc Lạc Dương
Quanh quẩn giữa vườn hoa
Đừng nhiều lời
Ai không nói!
"Đào Lý tử” nghĩa là "chạy về với con cái họ Lý", hai câu tiếp chỉ triều Tùy
xuống Dương Châu rồi không còn về bắc nữa. Hai câu cuối chính là chỉ
chữ "mật", tên riêng của Huyền Thúy (1).
1 “Đào" là cây đào, đồng âm với "đào" là trốn là theo. Chữ "mật" có nghĩa
là bí mật, giữ kín không nói cho ai biết, vì thế hai câu cuối hàm ý chữ
"mật" vậy!
Vì vậy Địch Nhượng bàn với chúng hào kiệt, tôn Huyền Thúy lên làm
Ngụy Công, lập đàn lên ngôi, xưng hiệu là Vĩnh Bình nguyên niên, ban
lệnh đại xá thiên hạ, tuyên cáo khắp cõi, đặt Nguyên soái phủ, bái Địch
Nhượng làm Thượng trụ quốc tư đồ Đông Quận công, Từ Mậu Công làm
Tả phiên vệ đại tướng quân, Đơn Hùng Tín làm Hữu phiên vệ đại tướng
quân, Tần Thúc Bảo làm Tả vũ hầu đại tướng quân; Vương Bá Đương làm
Hữu vũ hầu đại tướng quân; Trình Giảo Kim làm Hậu vệ tướng quân; La Sĩ
Tín làm Phiêu ký tướng quân; Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê, Vương Đương
Nhân đều làm Hổ bôn lang tướng, Phòng Ngạn Tháo làm Nguyên soái phủ
Hữu trưởng sử; Giả Nhuận Phủ làm Tả tư mã; Liên Cự Chân làm Hữu tư
mã, quan Tùy theo về, huyện lệnh Củng Huyện làm giám sát ngự sử.
Bùi Nhân Cơ tuy đóng ở Hà Nam nhưng lại không hòa thuận với giám sát
ngự sử Tiêu Hoài Tĩnh. Hoài Tĩnh tìm đủ mọi cách để chèn ép Nhân Cơ,
đến nỗi Nhân Cơ không thể nào chịu nổi. Nhuận Phủ vốn có quen biết cũ