trình lên men, và b
ỏ đói tế bào. Cesium cũng trung hòa axit lactic được
s
ản xuất bởi hô hấp kị khí, theo đó ngăn chặn tế bào sinh sôi và ngừng
“chu kỳ suy ki
ệt” ở cấp độ tế bào.
Có l
ẽ bác sĩ nổi tiếng nhất sử dụng cesium để điều trị ung thư là bác
sĩ H. E. Sartori. Ông b
ắt đầu chương trình điều trị ung thư bằng cesium
h
ồi tháng 4 năm 1981 tại Life Sciences Universal Medical Clinics ở
Rockville, Maryland, n
ơi 50 bệnh nhân ung thư “giai đoạn cuối” được
đi
ều trị. Nói cách khác, ung thư đã di căn đến các cơ quan khác, và họ
đ
ược trả về nhà chờ chết. Công nghiệp ung thư dán nhãn cho tình trạng
c
ủa họ là “vô phương cứu chữa” và “giai đoạn cuối”. Trong số 50 bệnh
nhân, 3 ng
ười hôn mê và 47 người đã hoàn thành liều lượng tối đa của
Big 3 tr
ước khi điều trị bằng cesium.
B
ệnh nhân được cho dùng cesium chloride cùng với vitamin A,
vitamin C, vitamin B17, k
ẽm và selenium. Chế độ ăn gồm chủ yếu các
lo
ại ngũ cốc, rau củ, và thực phẩm giàu chất béo omega-6. Để tăng hiệu
qu
ả điều trị, cải thiện lưu thông và ô-xy hóa, các bệnh nhân được truyền
các tác nhân gi
ải độc EDTA và DMSO. Nghiên cứu bao gồm mười bệnh
nhân ung th
ư vú, chín bệnh nhân ung thư đại tràng, sáu bệnh nhân ung
th
ư tiền liệt tuyến, bốn bệnh nhân ung thư tuyến tụy, sáu bệnh nhân ung
th
ư phổi, ba bệnh nhân ung thư gan, ba bệnh nhân ung thư hệ bạch
huy
ết, một bệnh nhân ung thư vùng chậu, và tám bệnh nhân ung thư
không rõ v
ị trí gốc.
K
ết quả thật kinh ngạc. Khoảng 50% bệnh nhân ung thư vú, đại
tràng, tuy
ến tiền liệt, tuyến tụy và thư phổi sống thêm ít nhất ba năm,
m
ặc dù các bác sĩ chính thống kết luận họ chỉ còn sống được một vài
tu
ần! Mười ba bệnh nhân đã chết trong hai tuần điều trị đầu tiên. Kết
qu
ả khám nghiệm tử thi cho thấy có giảm kích thước khối u do liệu pháp
cesium. Th
ật ngạc nhiên, cơn đau biến mất ở tất cả các bệnh nhân trong
vòng m
ột đến ba ngày sau khi bắt đầu liệu pháp cesium.
Tr
ước thực tế liệu pháp cesium chloride chỉ được sử dụng cho bệnh
nhân ung th
ư giai đoạn cuối, tỷ lệ chữa khỏi 50% của bác sĩ Sartori là
đáng kinh ng
ạc. Lý do là bởi tất cả các bệnh nhân đã được các bác sĩ
chính th
ống trao “án tử hình”. Họ bị gán cho là “vô phương cứu chữa” và
tr
ả về nhà chờ chết. Các cơ quan trong cơ thể của họ dường như đã bị
t
ổn hại bởi chính các liệu pháp điều trị hóa trị độc hại và/hoặc xạ trị. Tuy
nhiên, m
ột nửa trong số họ đã được cứu! Điều này thực sự đáng kể. Hãy